Đặc biệt, Đức
cố Giám mục Phaolô đánh giá rất cao vai trò của người tín hữu
giáo dân trong Hội Thánh. Điều này hoàn toàn phù hợp với giáo
huấn của Hội Thánh, nhất là từ thời Công Đồng Vatican II. Thành
thử, có thể nói rằng Đức Cha Phaolô sống và suy tư theo tinh
thần Công Đồng, dù ngài ở miền Bắc vào thời kỳ nhiều khó khăn
nhất.
Đức Cha
Phaolô viết: “Giáo dân, nói chung đều tốt cả. Người ta nói: ngày
nay Chúa Thánh Thần hoạt động nơi giáo dân hơn là nơi giáo sĩ.
Không biết có đúng không, nhưng có hiện tượng như thế” Ngài còn
viết mạnh hơn ở những dòng sau đó, nhất là khi ngài so sánh thái
độ giáo sĩ và giáo dân trong việc phong thánh cách đây hơn hai
mươi năm.
Đó là một lời
khích lệ cho người tín hữu giáo dân trong thời đại mà Hội Thánh
luôn đề cao đặc tính tham gia và hiệp thông của mình.
Giáo dân là
những con người giúp “hoàn thành sứ mạng trần thế của Giáo Hội”
khi họ thi hành “những trách nhiệm liên quan đến việc xây
dựng, tổ chức và vận hành xã hội”. Giáo huấn Xã Hội Công
giáo đã xác định điều ấy một cách rõ ràng. (x. Hiến chế Mục vụ
Gaudium et Spes, CĐ Vatican II và Thông điệp Populorum
Progressio của ĐGH Phaolô VI).
Sứ mạng trần
thế của Giáo Hội phù hợp với bậc sống và điều kiện của người tín
hữu giáo dân nên Giáo Hội uỷ thác và khuyến khích giáo dân thi
hành sứ mạng ấy. Nhưng Giáo Hội là Mẹ không đứng ngoài cuộc mà
quan sát và càng không thể bỏ bê. Tại sao thế?
Chính Giáo
Hội trả lời: Đó là “quyền cũng đồng thời là nghĩa vụ của Giáo
Hội, vì Giáo Hội không thể bỏ bê trách nhiệm này mà đồng thời
không chối bỏ chính mình và bất trung với Đức Kitô: “Khốn
cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16).
Giáo Hội còn
nói rõ hơn: “Vì Tin Mừng và đức tin có liên hệ đến đời sống
chung như thế, vì các hậu quả của bất công hay của tội rất tai
hại, nên Giáo Hội không thể giữ thái độ thờ ơ với các vấn đề xã
hội”. (x. Tông huấn Evangelii Nuntiandi, ĐGH Phaolô
VI)
Nhận xét của
Đức Cha Phaolô trong thời kỳ mà thông tin từ Toà Thánh bị hạn
chế, hoá ra lại hoàn toàn phù hợp và đi đúng con đường Hội
Thánh. Đó vừa là sự khích lệ cho người tín hữu giáo dân, vừa
giúp các chủ chăn về vai trò ủng hộ, nâng đỡ, chỉ dẫn và khuyến
khích con cái mình can đảm làm chứng cho Tin Mừng giữa xã hội
trần thế.
Người giáo
dân nào cũng cảm thấy được an ủi nhiều khi đọc lời Đức Cha
Phaolô: “Giáo dân, nói chung đều tốt cả”. Bất cứ người con nào,
dù đời sống không theo chuẩn mực, vẫn đầy hy vọng và yêu thương
khi nghe cha mẹ mình âu yếm nói nhỏ: “Con cái bố mẹ nói chung
đều tốt cả”. Tương lai đứa con chắc chắn sẽ rất đẹp và rất sáng.
Trong bối
cảnh xã hội phân hoá và bất định, mỗi người tín hữu giáo dân
được sai đi để làm chứng cho Tin Mừng trong một vai trò khác
nhau. Có những người con của Giáo Hội nhiệt thành và hăng say,
đi nhanh hơn vai trò hướng dẫn của một vài chủ chăn nhiều e dè.
Nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã đi trước họ nhiều lắm. Do đó niềm
khát khao của người giáo dân hôm nay là được chạy như bay đến
với Thầy Chí Thánh, có sự đồng hành và nâng đỡ của các chủ chăn
của mình.
Và khi được
các chủ chăn nâng đỡ, người giáo dân nhận thấy chính mình càng
phải có trách nhiệm, không chỉ với tư cách một thành viên trong
xã hội, mà còn là một “thừa sai” làm chứng tá cho Tin Mừng và
thi hành sứ mạng mà Mẹ Hội Thánh giao phó.
Xã hội này cố
ý trình bày sai lạc hình ảnh người giáo dân. Họ muốn cho thế
gian thấy người tín hữu là người sống xa cách với cuộc đời, là
những người hay gây hấn hoặc là những kẻ vọng ngoại. Thực tế thì
hoàn toàn khác hẳn. Người giáo dân là người sống trọn vẹn thân
phận con người giữa xã hội để nâng xã hội lên.
Các Thánh Tử
Đạo Việt nam là các tiền nhân anh dũng, không chỉ chết để làm
chứng cho Tin Mừng Phục Sinh, mà các ngài còn sống thật đẹp cuộc
sống giữa thế gian. Chính quá khứ hào hùng và yêu thương ấy đã
tạo cho người tín hữu giáo dân Việt nam một lối sống đạo, sống
cho Chúa và cho đồng loại một cách đặc biệt hơn.
Quá khứ hào
hùng ấy và hiện tại đầy yêu thương hôm nay đang hoà thành một,
như lời Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt: “Ta
là ta như hôm nay chính vì được nhào nặn trong dòng lịch sử. Tất
cả những biến cố, những con người chung quanh, dù ẩn khuất vào
bóng tối quá khứ, vẫn là một thành phần của đời ta. Ta có thể
tìm thấy tất cả những điều ấy trong tập hồi ký của Đức Cha
Phaolô Lê Đắc Trọng”.
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs