Tại
sao Chúa Giêsu khóc khi Người biết Người sắp làm cho Lazarô sống lại?
(Gioan
11:35)
Tại sao Chúa Giêsu lại khóc? Phải chăng vì Người không cầm được lòng khi
thấy Maria khóc? Nhưng Maria sở dĩ khóc là vì Lazarô thân yêu của chị em cô đã
chết, trong khi đó, Chúa Giêsu biết chắc chắn rằng Người có thể làm Lazarô cải
tử hoàn sinh cho chị em cô cơ mà! Vậy thì phải chăng động lực thúc đẩy Người
khóc, cử chỉ hết sức hiếm hoi và đặc biệt được Phúc Âm lần đầu tiên ghi nhận
này, là vì, ngay lúc bấy giờ, Người nghĩ đến các linh hồn bất tử vô cùng cao quí
nói chung, nhất là linh hồn của thành phần bạn thân của Người nói riêng, sẽ đời
đời bị chôn vùi trong nấm mồ sự chết, không bao giờ bước ra khỏi ngôi mồ vĩnh tử
này nữa, không còn nghe thấy tiếng gọi của Người nữa, khi Người lên tiếng gọi họ
như đã gọi Lazarô “hãy bước ra khỏi mồ”.
Một thi
thể vô hồn của con người có ít là ba dấu hiệu bề ngoài sau đây: lạnh ngắt, cứng
đơ bất động và trĩu nặng. Lý do duy nhất là vì thân xác ấy không còn hồn
sống hay sự sống, một nguyên lý làm cho thân xác còn hơi thở ấm nóng,
còn linh động phản ứng và còn nhẹ nhàng di chuyển. Một tâm
hồn không còn sự sống tâm linh cũng trở nên lạnh ngắt, cứng đơ và trĩu nặng như
một thi thể vô hồn. Lạnh ngắt ở chỗ có một tấm lòng vô cảm trước anh chị em khốn
khổ của mình, chỉ sống cho mình mà không hề lưu ý quan tâm gì tới kẻ khác, như
người phú hộ với Lazarô nghèo khổ (x Lk 16:19-21). Cứng đơ ở chỗ lương tâm đã
trở thành chai đá, đến độ mất hết ý thức tội lỗi, thậm chí phạm tội mà không cho
đó là tội, trái lại, còn cho đó là một quyền lợi được phép làm. Trĩu nặng ở
chỗ trở thành nô lệ cho ma quỉ, thế gian và xác thịt, đến độ không
được ăn cả những đồ của loài heo nhơ nhớp (x Lk 15:16).
Thế
nhưng, người con phung phá “như đã chết mà sống lại” (Lk 15:32), và bãi xương
khô như Tiên Tri Êzêkiên thị kiến thấy đã hồi sinh (x Ez 37:1-10), thì sự sống
cũng có thể xuất phát từ sự chết, từ tình trạng mục nát của hạt lúa miến trong
lòng đất (x Jn 12:24). Đúng thế, về phương diện tâm linh, con người tội lỗi trên
đời này là một con người sống trong sự chết, một sự chết, đối với Chúa, chẳng
khác gì như là một giấc ngủ (xem Mt 9:24; Jn 11:11), Người cần phải gọi họ
dạy, lay tỉnh họ dậy, bằng hiện sủng, thậm chí bằng cả thánh giá đau khổ,
đúng như những gì Người đã tâm sự với Chị Thánh Faustina: "Cha xót thương
theo đuổi các tội nhân dọc suốt con đường họ đi, và Trái Tim Cha hoan hỉ khi họ
trở về với Cha… Cha luôn luôn chờ đợi họ, chú ý lắng nghe tiếng đập của con tim
họ..., xem khi nào nó sẽ đập nhịp sống cho Cha? Cha đang nói với họ qua nỗi
ray rứt của lương tâm họ, qua những thất bại và khổ đau của họ, qua những giông
tố bão bùng, qua tiếng nói của Giáo Hội". (Nhật Ký số 1728)
Vì
là một giấc ngủ, dù có ngủ say, ngủ mê ngủ mệt đến mấy, đến độ “xông mùi”
đi nữa, như trường hợp của Lazarô, bởi “lời Chúa là những gì sống động và tác
hiệu, sắc hơn gươm hai lưỡi. Thấu nhập và chia cắt hồn thiêng, xương tủy; phán
quyết tâm tưởng của cõi lòng” (Heb 4:12), con người tội lỗi vẫn còn khả năng
nghe được tiếng “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24): “Kẻ chết sẽ nghe
thấy tiếng của Con Thiên Chúa và những ai nghe theo tiếng ấy sẽ được sống”
(Jn 5:25).
Đó
là lý do, lạy Chúa, chỉ có kẻ nào muốn đời đời hư đi mới bị hư đi mà thôi, chỉ
có kẻ nào nhất định chọn Satan và ma quỉ làm bạn, chọn hỏa ngục làm thiên đường
mới vĩnh viễn mất Chúa là cùng đích của mình mà thôi. Xin Chúa đừng để chúng con
bao giờ hồ nghi lòng thương xót vô cùng bao la rộng lượng của Chúa, trái lại,
càng tội lỗi chúng con càng cần đến lòng thương xót Chúa, càng gần lòng thương
xót Chúa hơn ai hết và hơn bao giờ hết.
Chính
Chúa Giêsu đã khẳng định với Chị Thánh Faustina về quyền lợi của thành phần tội
nhân đối với Lòng Thương Xót Chúa như sau: "Càng là
đại tội nhân càng có
quyền đối với tình thương
của Cha"
(Nhật Ký số 723); "Những đại tội nhân thượng hạng hãy đặt niềm cậy tin nơi
tình thương của Cha. Họ có quyền tin cậy vào tình thương thăm thẳm của Cha
trước các linh hồn khác...Cha không thể trừng phạt dù họ có phạm tội nặng
nhất, nếu họ kêu cầu đến lòng xót thương của Cha, ngược lại, Cha công chính hoá
họ trong tình thương vô tận khôn dò của Cha". (Nhật Ký số
1146);
"Các
đệ nhất đại tội nhân cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ
cần họ tin tưởng vào tình thương của Cha". (Nhật Ký số
1784).
Thế
nhưng đồng thời Chúa cũng cảnh báo thành phần không còn nghe thấy tiếng gọi của
Lòng Thương Xót Chúa của Người nữa, như sau:
"Nếu một
linh hồn giống như một thi thể rữa nát, mà theo quan niệm loài người, không còn
phục hồi được nữa, mọi sự hoàn toàn đã tiêu tan, thì đối với Thiên Chúa, lại
không như vậy. Phép lạ của Tình Thương Thần Linh phục hồi trọn vẹn linh hồn đó.
Ôi, bất hạnh biết bao những linh hồn không lợi dụng phép lạ của tình thương
Thiên Chúa! Các người sẽ kêu gào vô vọng mà cũng đã quá muộn mất
rồi" (Nhật Ký
số 1448).
"Có lần
con hỏi Chúa Giêsu làm sao Người lại có thể chịu đựng được quá nhiều tội lỗi và
tội ác như vậy mà không trừng phạt chúng thì Người đã trả lời con như thế
này: 'Cha có cả đời đời để trừng phạt tội lỗi, và Cha kéo dài thời gian xót
thương vì các tội nhân. Thế nhưng, khốn cho họ nếu họ không nhận biết thời gian
Cha thăm viếng'" (Nhật Ký số 1160).
Chúa Giêsu
quả thực cũng đã khóc lần thứ hai về tình trạng thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá
bởi nó không nhận biết việc viếng thăm của Người: "Khi Ngài đã tới gần,
trông thấy thành, thì Ngài khóc về thành, mà rằng: 'Phải
chi ngày hôm nay, cả ngươi nữa, ngươi càng nhận ra phúc triệu bằng yên! Nhưng
hiện giờ điều ấy bị khuất khỏi mắt ngươi: Vì chưng sẽ đến trên ngươi những
ngày mà thù địch ngươi đóng cừ đắp lũy, và bao vây ngươi, công hãm ngươi tư
bề. Chúng sẽ phá bình địa, ngươi và con cái ngươi trong thành, và nơi
ngươi, chúng sẽ không để đá còn trên đá, bởi vì ngươi đã không nhận biết thời
ngươi được viếng thăm!'" (Lk 19:41-44)
Chúa Giêsu
không khóc sao được, không nức nở sao được, như Người đã tự thú với nữ sứ giả
người Bỉ của mình trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ về số phận
đời đời của thành phần hư đi trước Lòng Thương Xót Chúa vô biên của Người như
sau: "Mất đi một trong các con cái của Cha đối với Cha là một bất hạnh
lớn. Cha đã đến vì họ mà Cha lại không thể cứu lấy họ..."
(ngày 10-12-1968); "Hỡi con gái của Cha ơi, con có biết cái
thảm bại của một vị Thiên Chúa là gì không? Đó là Người không thể cứu được hết tất cả mọi người
bằng Hy Sinh của Người" (ngày 18-5-1970); “Những ý nghĩ của Cha (ở trên đồi
Gôngôta) là những ý nghĩ thương hại và thương xót. Họ không biết rằng, chỉ bằng
một cử chỉ là Cha đã có thể hủy diệt họ đi rồi. Cha để cho họ tha hồ thỏa tay
hành khổ Cha, vì trong thâm tâm của Cha, Cha đã chấp nhận Hy Sinh theo ý muốn
Cha của Cha. Thế nhưng, nỗi sầu khổ của Cha đã tăng lên gấp bội, vì Cha đã biết
rằng, cho dù Cha có để cho mình bị hành
hình đến như vậy, Cha vẫn không sao
cứu được tất cả mọi con cái của Cha, và đối với nhiều người, Hy Sinh của Cha sẽ
trở thành luống công vô ích” (Thứ Sáu Tuần Thánh 30-3-1972).
Tuy nhiên,
vấn đề không chỉ dừng lại ở đây, vì Người cũng đã đặt vấn đề hết
sức nhức nhối này như sau: "Khi Cha bị treo trên thập giá như
một tội nhân chỉ vì yêu thì chẳng lẽ Cha chỉ được ôm lấy một khoảng không trống
rỗng hay sao?" (ngày 15/10/1966)
Vậy thì
các linh hồn hư đi nhiều hay ít và họ sẽ được cứu bằng cách nào? Xin tiếp tục
theo dõi Một Thoáng Suy Tư 5 và 6.
Tông Đồ Chúa Tình Thương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL