CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
D.
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC VÀ SỐNG
TƯƠNG QUAN VỚI GIA ĐÌNH
(tiếp theo)
E. NHỮNG TRÔNG
ĐỢI
E.1. Linh mục
tương lai trông đợi
E.1a Nơi Giám
Mục và Linh mục đoàn
·
Cần có sự cảm
thông, chia sẻ và nâng đỡ từ Đức Giám mục. Nhưng không nên kỳ vọng
quá nhiều vào Ngài, đòi hỏi sự nâng đỡ đặt biệt hơn anh em khác.
·
Cần có tình hiệp
thông liên đới trong linh mục đoàn. Cùng cộng tác trong mục vụ,
chia sẻ và nâng đỡ giữa anh em với nhau. Mong sự cộng tác và nâng
đỡ, hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau hướng tới vinh danh Thiên Chúa.
E.1.b Nơi bản
thân mỗi linh mục
·
Mong chính bản
thân linh mục luôn biết hướng tới Chúa là trung tâm và cùng đích
của đời sống linh mục của mình. Cần ơn Chúa giúp phát triển đời
sống thiêng liêng, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa tình yêu, sống
hiền hoà với mọi người theo gương Chúa Kitô Mục Tử nhân lành.
·
Không nên thần
thánh hoá đời sống linh mục để đòi hỏi sự phục vụ, trọng vọng nơi
giáo dân và tìm vinh danh cho mình; quan cách trong giao tiếp, coi
khinh người khác, độc tài trong khi làm việc, coi mình là người
biết mọi thứ mà không chịu học hỏi, kiêu căng, tự phụ.
·
Mong linh mục
dành nhiều thời giờ hơn cho việc giảng dạy giáo lý và soạn bài
giảng lễ, luôn cập nhật và tự trau dồi thêm kiến thức đạo đời để
tiến kịp với thời đại, nếu không sẽ trở nên lạc hậu đối với giáo
dân.
E.1.c Nơi cha xứ
·
Mong cha xứ luôn hết lòng vì giáo dân, chu toàn bổn phận của mình,
nhất là việc cử hành các bí tích; sống chan hoà, chịu khó tiếp
khách, lắng nghe và ghi nhận những tâm tình, tiếp thu ý kiến của
giáo dân…
·
Mong cha xứ không co cụm lại, chỉ biết mỗi xứ mình, một mình một
kiểu, không giống ai, không chơi với ai; phân bì, so sánh, khích
bác, nói xấu cha xứ cũng như giáo dân các xứ lân cận.
·
Mong cha xứ không tự ti về những yếu kém của mình mà thụ động, dù
Chúa ban cho một nén cũng hãy cố gắng làm lợi cho Chúa một nén
khác.
·
Mong cha xứ không bỏ xứ đi quá nhiều, khổ cho dân, tạo vất vả cho
các cha khác trong việc ban các bí tích; hoặc nghĩ mình chuẩn bị
chuyển xứ, nên không làm gì cả hay làm qua loa cho xong chuyện.
·
Mong cha sở cùng anh em linh mục khác cộng tác làm việc chung với
nhau, thường xuyên giúp đỡ, ủi an, thăm viếng, tạo uy tín và giữ
uy tín cho nhau.
E.1.d
Nơi Cha phó
·
Mong
cha phó ý thức rõ quyền hạn và nghĩa vụ của mình, làm mọi việc mà
cha xứ nhờ hay uỷ quyền và làm tốt nhất những gì có thể.
·
Mong cha
phó năng động, cộng tác, chia sẻ gánh nặng mục vụ với cha xứ trong
mọi lãnh vực; cảm thông, tha thứ những khiếm khuyết, yếu kém của
cha xứ và giúp đỡ cha xứ chu toàn sứ vụ…
·
Mong
cha phó coi cha xứ như người anh, tế nhị, tôn trọng, để cùng nhau
phục vụ trong yêu thương.
·
Mong
cha phó không qua mặt, coi thường, hay chống đối cha xứ; gây áp
lực, bất cộng tác, kết bè kết cánh, gây chia rẽ, phá rối cộng
đoàn, chiến tranh lạnh với cha xứ, gây gương mù gương xấu cho giáo
dân.
·
Mong
cha phó không ù lỳ, lười biếng, chỉ làm lễ lấy tiền, còn mọi việc
mặc kệ; coi cha xứ là ông chủ còn mình là nô lệ. Trái lại, hãy mặc
lấy tâm tình phục vụ như Chúa Kitô.
E.1.e Nơi Thầy Xứ
·
Mong Thầy xứ ý thức mình chỉ là người cộng tác, cố gắng giúp cha
xứ cách tốt nhất trong các lãnh vực ca đoàn, giáo lý, phụng vụ.
·
Mong thầy xứ làm mọi việc có sự đồng thuận của cha xứ; không làm
gì theo ý mình, ngược với ý cha xứ.
·
Mong thầy xứ sống cởi mở, hoà nhã, lịch sự với hết mọi người;
nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc, chứ không lười biếng
công việc, mà chỉ lo tìm kiếm các mối quan hệ vì tiền bạc hay tình
cảm.
·
Mong thầy xứ không ngông cuồng coi mình là giỏi, là hiểu biết rồi
không coi ai ra gì. Ai mời đi ăn cũng đi, rồi rượu chè say sưa
100%, tiếng tốt thì ít, tiếng xấu thì nhiều.
·
Mong các tu sĩ cũng tương tự như thầy xứ vậy.
E.1.f Nơi Giáo dân
·
Mong có sự cộng tác tích cực từ phía thường trực Ban Hành Giáo với
cha xứ, cùng bàn hỏi và tìm ra phương hướng chung, hiệu quả trong
việc phát triển giáo xứ để các hội đoàn cùng hiệp nhất phát triển
đức tin.
·
Mong giáo dân cầu nguyện cho cha xứ và nâng đỡ cha xứ về vật chất
cũng như tinh thần.
·
Mong giáo dân yêu thương, tôn trọng cha xứ như người cha tinh thần
mà Chúa gửi đến cho giáo xứ và giúp cha thi hành tác vụ cách tốt
nhất.
·
Mong giáo dân tha thứ cho cha xứ về những yếu kém, thiếu sót, lỗi
lầm… và góp ý cho cha xứ về những gì ngài không chuyên môn, những
mặt trái mà ngài không biết …
·
Mong giáo dân cộng tác với cha xứ trong những công việc chung,
trong việc lãnh đạo cộng đoàn, xây dựng đoàn hội, cơ sở vật chất
của giáo xứ… Đoàn kết, một lòng, luôn là những cánh tay cùng với
cha xứ xây dựng giáo xứ, thăng tiến giáo xứ về mọi mặt.
·
Mong giáo dân không lỗi đức bác ái: chửi bới, nói xấu, nói hành,
vu cáo, kiện tụng, bôi nhọ cha xứ; coi cha như người xa lạ, rồi ác
cảm, tránh mặt, không gặp, không đối thoại, không cộng tác.
·
Mong giáo dân không tìm cách ảnh hưởng lên cha xứ, cố gắng làm
được một chức gì đó trong xứ rồi ỷ thế làm càn, mang tiếng cho cha
xứ, gây gương mù cho cộng đoàn.
·
Mong giáo dân không vay mượn tiền bạc cũng như vật dụng của cha
xứ, vì vay mượn thì dễ mà trả thì khó, sinh ra nhiều phiền phức
mất lòng nhau; cũng đừng lừa dối cha xứ về tình, tiền, quyền.
·
Mong giáo dân không bè phái, cực đoan dòng họ, làm việc thì ít mà
bàn mưu tính kế hại nhau, làm mất mặt, mất thể diện của nhau thì
nhiều…
E.1.g
Nơi Chính quyền
·
Mong
Chính quyền tôn trọng và tạo điều kiện để giáo dân thi hành bổn
phận tôn giáo của mình; đồng thời tạo sự đoàn kết, thông thoáng
hơn trong các vấn đề xã hội, để giáo dân có thể tham gia nhiều hơn
trong việc đóng góp xây dựng đất nước.
·
Mong
Chính quyền để giáo dân được tham gia nhiều hơn trong các lĩnh vực
y tế, giáo dục, bác ái xã hội; thay đổi những chính sách hay thái
độ cư xử kỳ thị, thù nghịch, không công bằng; không làm gì cách áp
chế, khiến người dân có ác cảm với chính quyền.
E.2.
Giáo dân trông đợi
E.2.a
Trong tương quan linh mục với giáo dân
·
Giáo
dân Việt Nam rất quí trọng linh mục và lòng quí trọng này vừa là
một lợi điểm lại vừa là một nguy cơ: Là lợi điểm vì giúp cho linh
mục cảm thấy mình cần thiết và có ích, ít cảm thấy bị cô đơn; là
nguy cơ, vì lòng quí trọng ấy có thể làm cớ cho linh mục ỷ y mà
tôn mình lên, coi thường thiên hạ, cho mình có quyền ăn trên ngồi
trước, hách dịch, quan liêu.
·
Mong
linh mục coi lòng quí trọng này là một ơn riêng Chúa dành cho hàng
ngũ linh mục Việt Nam, để nhờ đó các vị được an vui và phấn khởi
trong chức vụ chứ không phải ngược lại.
E.2.b Trong căn
tính linh mục
·
Chức linh mục
được đề cao (là một Đức Kitô khác) và do sự đề cao quá đáng quyền
chức này mà linh mục dễ bị cám dỗ tôn mình lên, ví dụ trong ngày
chịu chức, khi người ta đến xin phép lành đầu tay hay ngỏ lời chúc
mừng. Đây là một cử chỉ đầy lòng tin và khiêm nhường, chớ gì tân
linh mục xúc động mà tăng thêm lòng tạ ơn Chúa và sống cho xứng
đáng.
·
Giáo dân muốn
linh mục nên giống Chúa Giêsu về lòng nhân ái và tinh thần phục vụ:
Chúa Giêsu luôn gần gũi tiếp xúc với người ta và tìm cách làm ơn
cho họ. Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp,
dễ gần và dễ nhờ việc thiêng liêng. Vì đức tính này mà linh mục
được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thuý là con người “bị ăn” (Le
prêtre est un homme mangé).
·
Nhiều linh mục
ngày nay dành nhiều thời giờ cho mình mà ít cho giáo dân. Có linh
mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi
tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở
nhà, mọi việc giao cho thầy xứ, dì xứ hay Ban hành giáo, khiến cho
giáo dân nhiều người cần gặp mà không gặp được. Có những cha sở
tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ tính lạnh lùng và hay bẳn gắt
của cha. Vì thế, giáo dân mong linh mục hoạ lại hình ảnh Chúa
Giêsu trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.
·
Đức Giáo hoàng
Grêgoriô Cả than phiền là có nhiều linh mục, nhưng rất ít linh mục
chịu làm việc theo chức năng của mình hay có làm thì lại làm những
việc ở bên ngoài chứ không phải việc bên trong. Việc chính yếu của
linh mục là rao giảng lời Chúa, cử hành bí tích, giáo dục đức tin
và lo phần rỗi cho các tín hữu. Những việc này phải làm trước rồi
mới đến những việc khác như xây cất, mở mang cơ sở, hoạt động xã
hội, phát triển dân sinh v.v…
·
Ở Việt
Nam, cha sở có một vị trí xã hội tốt, nói thì dân dễ nghe và người
ta cũng hay nhờ thế cha sở để làm công kia việc nọ. Vì thế, cha sở
cũng dễ bị cám dỗ trở thành một nhân vật ngoài đời để có thế ăn
nói với người ta. Điều này có thể đưa linh mục đi ra khỏi phạm vi
chức vụ chính thức của mình. Linh mục phải coi chừng với tính
thích làm quan tự nhiên của mình mà luôn nhớ rằng linh mục chính
yếu là người phục vụ Chúa và Tin Mừng của Người.
·
Linh mục không
chỉ biết có phòng thánh, nhà thờ và nhà xứ, mà cũng không ham mê
lo những công việc bên ngoài. Phải theo bậc thang giá trị mà dành
ưu tiên cho những việc thuộc bổn phận linh mục: làm lễ, giải tội,
giảng thuyết, đi kẻ liệt, thăm viếng người nghèo khổ, ốm đau bệnh
tật. Một linh mục làm đầy đủ bổn phận của mình thì chẳng còn thời
giờ rảnh rỗi bao nhiêu; mà nếu có rảnh rỗi thì cũng nên dành thời
giờ để học hành, đọc sách vở thêm.
E.2.c Trong đời
sống tri thức
·
Làm linh mục
rồi nhưng vẫn còn phải học, phải viết bài giảng và giảng thế nào
cho người ta nghe được. Thường sau khi làm linh mục rồi, ít vị còn
thích tiếp tục làm việc tri thức. Vì vậy, giáo dân mong linh mục
dành giờ làm việc tinh thần mỗi ngày: soạn bài giảng không dài quá,
không chạy theo thời sự nhưng chú trọng vào sứ điệp lời Chúa,
không khuyên lơn hời hợt nhưng mở lối cho những áp dụng thiết thực
đức tin vào cuộc sống, không chiều theo thị hiếu người nghe mà chú
tâm vào việc giáo dục đức tin và đem lại cho người ta một cái gì
có chất lượng: muốn thấy một bài giảng chứ không muốn nghe một
bài giảng.
·
Dân chúng hôm
nay thích sự hào nhoáng và hình thức bên ngoài: thích vui, thích
dễ, thích ồn ào. Linh mục phải giữ chừng mực, nếu chiều theo
khuynh hướng này thì linh mục cũng dễ trở thành hời hợt nông cạn.
E.2.d Trong tác
phong linh mục
·
Giáo dân muốn
linh mục có tác phong thích đáng trong cách ăn mặc, nói năng, cư
xử. Ăn mặc như người ta có cái lợi là dễ hoà đồng, thoải mái,
nhưng có cái bất lợi là có thể làm cho linh mục quên căn tính của
mình mà không còn giữ gìn hay ít giữ gìn trong lời ăn tiếng nói và
cư xử với người ta nữa.
·
Vì vậy, tuy ăn
mặc như người đời, nhưng linh mục vẫn phải giữ cho mình cái cốt
cách là linh mục: đơn sơ xứng đáng với con người được học hành, có
chữ nghĩa và có văn hoá, không chải chuốt quá đáng mà cũng không
lôi thôi, áo quần luộm thuộm, đầu tóc bù xù, nói năng bừa bãi.
·
Có dư luận rằng
nhiều linh mục trẻ sau 1975 thiếu nhân bản trong cách hành xử,
đáng cho các linh mục lưu ý vì có liên quan đến ảnh hưởng và uy
tín của các vị trong vấn đề làm chứng cho Chúa và cho đạo.
·
Thận trọng
trong vấn đề vật chất: tiền bạc, của cải, đất đai nhà ở, đồ dùng
cá nhân. Giáo dân rất để ý, họ thích những linh mục không lo làm
giầu hay tìm kiếm của cải vật chất cho mình hoặc bà con họ hàng;
họ nể trọng những linh mục sống đơn sơ giản dị, không xa hoa trong
cách ăn mặc và biết sử dụng tiền bạc cách chính đáng.
E.2.e
Trong các tương quan
·
Một
trong những lý do khiến ít người theo đạo, dù đạo có tổ chức chặt
chẽ, kỷ luật nghiêm minh, nhà thờ đẹp đẽ, nhiều cơ sở to lớn và
các lễ nghi rất tưng bừng lôi cuốn, đó là tại giới linh mục xa
cách dân chúng. Do đó, linh mục phải để ý hơn đến những nghèo và
ít học, chứ không chỉ chơi với người giầu và có học.
·
Giáo
dân mong muốn thấy cha sở và cha phó sống gắn bó thân tình, đồng
tâm nhất trí với nhau trong công tác mục vụ và hướng dẫn cộng
đoàn. Gương sống hiệp thông thân mật, kính trọng, yêu thương và
nhường nhịn nhau giữa các vị mục tử là yếu tố có sức thuyết phục
nhất đối với cộng đoàn dân Chúa.
·
Giáo
dân mong linh mục bén nhạy với mọi diễn biến đổi thay của tình
hình xã hội để có những kế sách và phương án uyển chuyển, thích
nghi năng động và cảm thông sâu sắc những khó khăn trong việc sống
đạo của người tín hữu.
·
Mong
các ngài nhiệt thành việc tông đồ và vui vẻ hoà nhã, tậm tâm phục
vụ như người cha, người anh và là trụ cột vững vàng trong đại gia
đình giáo xứ giữa những biến động phức tạp của xã hội hôm nay.
Dự
phóng và ước mơ bao giờ cũng nhiều và đẹp. Chớ gì mỗi người theo
đuổi cho đến cùng những ước mơ và dự phóng tương lai của mình. Xin
Chúa tiếp tục cho đến hoàn thành tốt đẹp những gì Ngài đã khởi sự
với chúng ta và cho chúng ta.
|