Câu hỏi gợi ý:
1.
Trong cuộc đời, bạn có
gặp trường hợp xung đột giữa hai “bản
tịch” như Đức Giêsu, nghĩa là trung thành với
tôn giáo thì bị kết án là phản bội đất
nước, và ngược lại, trung thành với
đất nước thì bị kết án là phản
bội tôn giáo không? Trong trường hợp đó, bạn
cần phải hành xử thế nào?
2.
Bạn có phân biệt rõ rệt như
Đức Giêsu: cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa
không? Nghĩa là phân biệt thánh ý Thiên Chúa và ý muốn
của các thế lực đạo đời đang chi
phối mình không? Phải coi ý muốn của ai quan
trọng hơn?
CHIA SẺ
1. Tình trạng hai “bản
tịch” của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy sự xung đột giữa hai “bản
tịch” của Đức Giêsu cũng như của
mọi Ki-tô hữu có quê hương dân tộc, nghĩa là
vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức “giáo
tịch”, vừa là người dân của một
đất nước, tức “quốc tịch”. Ngài
cũng như chúng ta, vừa phải yêu mến Thiên Chúa và
có những bổn phận tôn giáo (như thờ
phượng Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử
theo lương tâm…), vừa phải yêu
quê hương đồng bào và có nghĩa vụ
đối với đất nước của mình
(như tôn trọng pháp luật, đóng thuế, quân
dịch…). Hai thứ trách nhiệm này thường phù
hợp với nhau, nhưng cũng có rất nhiều
trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành
với tôn giáo thì có vẻ như phản bội đất
nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê
hợp nhau đặt bẫy Đức Giêsu. Người
Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái
giáo và đất nước Do Thái, vì thế, họ âm
thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng Hê-rốt là người của
Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê -
chủ trương ủng hộ chính sách đô hộ
của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống
đối nhau kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe
Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc; còn phe
Hê-rô-đê là tay sai của đế
quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng
nước những mầm mống chống lại
đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất
lạ là trong bài Tin Mừng này hai phe chống đối
nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại
Đức Giêsu, bằng cách đặt Ngài vào một
trường hợp thật khó xử là sự xung
đột giữa hai “bản tịch” ấy. Họ
chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế
cho Xê-da hay không?” Trả lời thế nào Ngài
cũng đều bị kết án. Nếu nói “được
phép”, Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng
hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc,
đồng thời chống lại Thiên Chúa mà tín
đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo “không được” thì
người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho
chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền phản
động, chống lại chính sách của đế
quốc. Nhưng Đức Giêsu đã
trả lời họ một cách thật tài tình, khiến
cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được,
đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc
để hành xử khi mang hai “bản tịch” trên. Đó là “của Xê-da, trả về Xê-da; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
2. Thần quyền
hợp với thế quyền bách hại Đức Giêsu
Người mang hai “bản
tịch” như thế bị chi phối rất nhiều
bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo
và thế quyền bên đất nước, xã hội. Lý
tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm
đến những thiện ích chung
của mọi người để cùng cộng tác
với nhau, mưu lợi ích và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho
mọi người dân, mọi tín đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần
quyền và thế quyền chống đối nhau,
nhất là khi hai bên có những quan điểm căn bản
ngược lại nhau. Chẳng hạn
khi thế quyền chủ trương vô tôn giáo, hoặc
nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo đó
là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào
thế bị bạc đãi. Lúc đó,
những người dân hai “bản tịch” bị
ngược đãi ấy bị buộc phải chọn
một bên và bỏ một bên một cách thật đau
lòng. Đau lòng là vì họ chẳng
muốn bỏ một bên nào, bên nào cũng hết sức
thân thiết với họ. Họ lâm vào thế
kẹt: hễ trung thành với tôn giáo thì bị nhà
nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì
bị tôn giáo kết án.
Nhưng cũng có
những trường hợp thần quyền và thế
quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột
người dân vốn thấp cổ bé miệng, như
trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần
quyền có thể trở thành công cụ của thế
quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng
thế của nhau để áp bức người dân,
để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp
với nhau, bênh vực hay tương nhượng lẫn
nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai trái, bất
chấp quyền lợi chung của đất
nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền
cũng như thế quyền đều được
lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của các tín
đồ. Thần quyền còn nhằm
phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các
quốc gia và các tôn giáo, cũng như cuộc đời
của Đức Giêsu cho thấy: không phải lúc nào
thần quyền và thế quyền cũng đi đúng
mục đích của mình. Nhiều trường hợp
họ theo đuổi những mục
đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ.
Thiết tưởng các Ki-tô hữu chân chính, tức
những môn đệ đích thực của Đức
Giêsu, cho dù hoạt động trong thần quyền hay
thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi
của Thiên Chúa, của đất nước, của tôn
giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh
bản thân, quyền lợi cá nhân cũng như tập
thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả
ấy. Nếu không thì càng giữ chức vụ cao, họ
càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và
đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân
duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên Chúa dành
cho họ.
3. Áp dụng nguyên
tắc của Đức Giêsu
Là tín đồ
của một tôn giáo trong một đất nước,
chúng ta có hai “bản tịch” với hai loại nghĩa
vụ: một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội,
đời sống tâm linh, lương tâm con người;
hai là đối với quốc gia, xã hội. Người
Ki-tô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn
chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy.
Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực
đạo và đời cùng đồng quan điểm và
cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung.
Lúc đó, cả hai thế lực đều là những
công cụ phục vụ điều thiện, vì thế,
tuân theo mệnh lệnh của những
thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa.
Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: “Hãy tôn trọng mọi
người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên
Chúa, hãy tôn trọng nhà vua” (1Pr 2,16).
Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung như thế, thánh Phao-lô nói: “Mỗi
người phải phục tùng chính quyền, vì không có
quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền
bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như
vậy, ai chống đối quyền bính là chống
lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào
chống lại sẽ chuốc lấy án phạt” (Rm 13,1-2). Đó chính là áp dụng lời của
Đức Giêsu: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, nghĩa là nghĩa vụ
thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa
vụ ở bên nấy.
Tuy nhiên, lý
tưởng trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó
người dân hai “bản tịch” sẽ gặp nhiều
khó khăn. Là người Ki-tô hữu, chúng ta cần phải
đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người
lên trên hết. Và kế đó là phải phân
biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn
của hai thế lực đạo, đời ấy.
Chủ trương và động lực của hai thế
lực này không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý
của Thiên Chúa và lương tâm con người. Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là
bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục.
Đức vâng phục Ki-tô giáo đòi buộc
chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao
lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên
phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng
ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù
hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy
là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải
tuân phục. Vì “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng
lời người phàm” (Cv 5,29). Nếu ta biết ý của bề trên phản
lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt
vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với
họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết
Đức Giêsu và các ngôn sứ, mà hậu quả là
nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ
thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng
là chúng ta phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa
được thể hiện qua lương tâm ngay
thẳng và được giáo dục của mình, bất
chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay
thương mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ
trương làm chính trị hay thương mại, mà
chỉ chủ trương làm theo thánh
Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn
phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương
mại mà chúng ta có quyền miễn làm theo
thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm.
Trước những xung đột như thế, hãy
tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên
Chúa hay theo ý muốn của con người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con
đang sống trong một thế gian đầy phức
tạp, việc sống theo ý muốn
của Cha không phải là đơn giản, vì rất
nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên
tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao nhất mà Kinh
Thánh mặc khải cho, chính là: “Phải vâng lời Thiên Chúa
hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29),
hay “Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước
Trời mà thôi” (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ nguyên
tắc ấy qua lương tri và lương tâm của
con. Amen.