Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH HÔN PHỐI
1.
Có nhiều kiểu nói trong Giáo Hội vốn dễ duy trì nơi người giáo
dân não trạng mà người ta thường gọi là não trạng tiêu thụ, đặc
biệt đối với các bí tích. Người ta thường nói, chịu các bí tích,
lãnh nhận các bí tích. Đành rằng, bí tích là những cử hành của
Giáo Hội, chỉ có Giáo Hội mới có thể ban các bí tích. Tuy nhiên,
khi nói người giáo dân chịu hay lãnh nhận các bí tích, người ta
dễ khuyến khích giáo dân rơi vào thái độ thụ động hoặc tiêu thụ
đối với các cuộc cử hành trong Giáo Hội.
Bí tích là một cuộc cử hành của
toàn thể Giáo Hội, trong đó, mọi tín hữu đều được mời gọi tham
dự, nghĩa là trở thành tác nhân tích cực. Nghĩa là người tín hữu
không chỉ đón nhận một sứ mạng mới của Giáo Hội, nhưng chính họ
phải trở thành những người thợ tích cực trong việc xây dựng Giáo
Hội.
Giáo Hội muốn làm nổi bật thái độ
tích cực đó cách đặc biệt trong bí tích Hôn Phối. Trong hầu hết
các bí tích, gương mặt nổi bật trong nghi thức là giám mục hoặc
linh mục; trái lại, trong bí tích Hôn Phối, thừa tác viên của bí
tích chính là đôi tân hôn.
Trước mặt linh mục vốn chỉ đóng
vai trò chứng giám, chính đôi tân hôn mới là thừa tác viên cử
hành bí tích. Đó chính là sự mới mẻ của bí tích Hôn Phối. Người
tín hữu không còn chịu hay lãnh bí tích nữa. Họ chính là người
cử hành bí tích.
Tính cách tân kỳ của bí tích Hôn
Phối không chỉ do sự kiện đôi tân hôn nắm phần chủ động trong
nghi thức vốn chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, mà chính họ trở
thành bí tích. Thiên Chúa đã muốn nêu bật tầm quan trọng của hôn
phối khi Ngài mượn hình ảnh hôn phối để nói về tình yêu của Ngài
đối vơí nhân loại. Thật thế, trong suốt chiều dài lịch sử
Israel, Thiên Chúa luôn được tỏ bày như một phu nhân, quan hệ
giữa Ngài và Israel được diễn tả như một cuộc hôn nhân.
2.
Sang đến Tân Ước, thánh Phaolô như muốn diễn đạt tất cả
sự cao cả của hôn phối khi Ngài viết trong thư gửi cho giáo đoàn
Êphêsô 5, 32: “Mầu nhiệm này thật cao cả, tôi muốn nói
đến tình yêu của Chuá Giêsu đối với Giáo Hội”. Qua lời khẳng
định trên đây, thánh Phaolô muốn nói: vợ chồng phải yêu thương
nhau như chính Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội. Tình yêu giữa
hai người phải trở thành dấu hiệu hữu hình của tình yêu giữa Đức
Kitô và Giáo Hội Ngài. Còn hình ảnh nào còn có thể diễn tả được
tình yêu của Đức Kitô đối với Giáo Hội cho bằng tình yêu vợ
chồng?
Nói đến tình yêu vợ chồng là nói
đến mọi diễn tả trong tình yêu đó. Từ những cử chỉ âu yếm hy
sinh cho nhau đến sự kết hiệp nên một thân xác trong hành động
giao hợp, tất cả đều là dấu chỉ, đều là bí tích của tình yêu Đức
Kitô đối với Giáo Hội. Sách Diễm Tình Ca chứa đựng không biết
bao nhiêu cảnh trữ tình lãng mạng, nhưng đã được xem như một mạc
khải về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Trong bí tích Hôn Phối tất cả mọi
sinh hoạt trong đời sống vợ chồng và gia đình đều được nâng lên
như dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và công cuộc cứu rỗi của
Ngài. Dù không rao giảng, hai vợ chồng cũng là những tông đồ
sống động của tình yêu Thiên Chúa qua tình yêu và qua cuộc sống
của họ. Qua tình yêu ấy, họ trở thành dấu chỉ hữu hình của Thiên
Chúa vô hình. Họ trở thành cung thánh của Thiên Chúa tình yêu.
Họ là dấu chứng và là lời ngỏ cho mỗi người rằng, Thiên Chúa
tình yêu hiện hữu. Thiên Chúa ở đâu? Để trả lời câu hỏi ấy, có
lẽ người tín hữu nên chỉ vào một đôi vợ chồng công giáo. Nơi nào
hai vợ chồng công giáo yêu thương nhau, nơi đó có Thiên Chúa.
3.
Hôn phối giữa hai Kitô hữu là một bí tích. Đó là khẳng
định mà người ta có thể tìm thấy trong bất cứ tài liệu về hôn
phối nào của Giáo Hội. Nhưng vì não trạng thụ động và tiêu thụ
đối với các cử hành của Giáo Hội, người ta dễ đóng khung bí tích
trong khoảnh khắc của buổi cử hành, hết nghi lễ là hết bí tích.
Ra khỏi nhà thờ là giã từ bí tích. Thật ra, bí tích nào của Giáo
Hội cũng đều là một dấn thân. Người tín hữu không chịu hay lãnh
một bí tích, mà đón nhận một sứ mệnh để ra đi và trở thành bí
tích của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Điều này đúng cho bí tích Hôn Phối
hơn bất cứ trường hợp nào. Qua bí tích Hôn Phối, đôi vợ chồng
Kitô hữu trở thành bí tích của tình yêu Thiên Chúa. Cả cuộc sống
của họ là một cử hành bí tích. Do đó, đôi vợ chồng Kitô hữu
không chỉ làm phép cưới một lần trong nhà thờ mà còn tiếp tục là
một bí tích bằng cả cuộc sống của họ. Được liên kết với Đức Kitô
trong bí tích Hôn Phối, họ cũng bắt chước Ngài để trở thành hình
ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình. Họ được mời gọi để không
ngừng cởi bỏ con người cũ của tội lỗi để mặc lấy con người mới
trong Đức Giêsu Kitô, để ngày qua ngày họ đạt được tầm vóc viên
mãn của Ngài.
Giáo Hội được gọi là bí tích của
Đức Kitô, bởi vì Giáo Hội là thân thể nối dài và hiện thực hóa
sự hiện hữu của Ngài. Như Đức Kitô đã từng nói: “Ai thấy Ta là
thấy Chúa Cha”, Giáo Hội cũng có thể nói ai thấy Giáo Hội là
thấy Đức Kitô. Thấy Giáo Hội không như thấy bất kỳ một tổ chức
nào, mà như là một cộng đồng yêu thương. Chính tình yêu mới là
dấu hiệu biểu lộ sự hiện diện của Chúa. Bởi vì ở đâu có tình
yêu, ở đó có Thiên Chúa.
Tiếp nhận sứ mệnh của Giáo Hội,
đôi vợ chồng Kitô hữu cũng trở thành bí tích của Đức Kitô. Họ
phải sống thế nào để mọi người khi nhìn vào đều tin nhận rằng,
tình yêu đích thực hiện hữu; và nếu như ở đâu có tình yêu, ở đó
có Chúa, thì người ta cũng sẽ nhận ra chính Chúa trong chính
tình yêu của họ.
|