Hỏi:
Liên quan đến việc xưng
tội, xin Cha giải thích thêm điều này:
Sau khi đã thật lòng
xưng tội với linh mục
thì Chúa đã tha thứ hết mọi tội rồi. Vậy tại sao còn phải làm
việc “đền tội” sau đó? Như vậy có phải Chúa không tha hết hay
tha có điều kiện hay sao?
Trả lời:
Trước hết, tôi cần nói lại
một lần nữa về tội và lòng thương xót, tha thứ
của Chúa, là Cha rất nhân từ.
Người chê ghét mội tội lỗi, nhưng lại
yêu thương người có tội biết ăn năn, sám hối.
Do
hậu quả của tội Nguyên tổ (Original sin), bản chất con người
đã trở nên
yếu đuối và rất dễ sa ngã, mặc dù được
tái sinh qua phép rửa, được tha thứ một lần khỏi tội nguyên tổ
và mọi tội cá nhân khác. Nhưng sau đó, chính
vì bản chất yếu đuối nói trên cộng thêm
sự cám dỗ mãnh liệt của ma quỉ và gương xấu của thế gian, mà
con người vẫn
còn nguy cơ phạm tội cá nhân nhiều lần nữa. Nguy cơ này kéo dài
suốt cả đời người cho đến giờ hấp hối trên giường bệnh. Và chỉ
khi linh hồn ra khỏi xác, con người mới hết nguy cơ bị cám dỗ và
phạm tội mà thôi.
Vì
thế, Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ rằng: “Anh em hãy canh
thức mà cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì
hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” (Mt 26:41).
Thánh Phêrô cũng cảnh cáo chúng ta về nguy cơ của tội đến từ ma
quỉ như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức vì ma
quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi
cấu xé.” ( 1Pr 5:8)
Như
thế, tội lỗi là một thực trạng của con người sống trên trần thế
này. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu, trước khi về Trời, đã lập bí
tích Hoà Giải để giúp con người giao hoà lại với Thiên Chúa sau
khi đã lỡ phạm tội vì yếu đuối và vì
‘sa chước”
cảm dỗ. Chúa đã trao cho
các Tông Đồ và những người kế vị quyền tha tội cho mọi hối nhân
như sau: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha.
Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” ( Ga 20:23)
Đây
là nền tảng thần học và kinh thánh của bí tích Hoà giải (xưng
tội) qua đó Chúa Kitô tiếp tục tha tội cho chúng ta qua sứ vụ
của các thừa tác viên có chức thánh là Giám Mục và Linh mục.
Theo giáo lý của Giáo Hội, tội được chia ra làm hai loại: tội
trọng (mortal sin) và tội nhẹ (venial sin). Nhưng mọi tội đều có
thể được tha, nếu thực tâm thống hối và còn tin tưởng vào lòng
thương xót của Chúa. Riêng
tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần, tức là tội
chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn thì không thể tha được, vì
kẻ đã chối Chúa, không tin có Chúa thì chạy đến với ai mà xin
tha thứ được?
(x. Mc 3:28-29).
Nhưng sau khi
được tha mọi tội qua bí tích hòa giải, hối nhân vẫn còn phải làm
một số việc lành để đền tội theo chỉ dẫn của cha giải tội. Lý do
là :
“Ơn tha tội xoá mọi tội lỗi, nhưng không sửa chữa được
những xáo trộn mà tội đã gây ra” như Thánh Công
Đồng Trentinô đã dạy. (x SGLCG, số 1459).
Nói
khác đi, khi ta thành tâm xưng tội, thì tội được tha và giúp ta
lấy lại tình thân với Chúa. Nhưng phải làm một số việc lành
tương xứng để đền bù lại.
Thí dụ, lấy của ai cái gì, thì phải trả lại người ấy cách nào
đó vì phép công bằng đòi buộc như vậy.
Giết người không thể đền mạng được,
nhưng phải làm việc gì có giá trị bảo vệ sự sống để đền bù lại.
Nghĩa là không thể đọc năm ba kinh Lậy Cha, Kính Mừng để đền tội
giết người hay làm thiệt hại danh dự và tài sản của người khác
được. Đây là việc “đền tội = penance” mà các cha giải tội đòi
hối nhân phải làm để sửa chữa những hậu quả do tội gây ra, sau
khi đã xưng và được tha qua ơn phép tha tội (absolution).
Mặt
khác, cũng theo giáo lý của Giáo Hội, thì tội mang lại hai hậu
sau đây, tùy mức phạm là nặng hay nhẹ:
Tội
trọng làm mất tức khắc sự hiệp thông (communion) với Chúa là
tình yêu; và nếu chết không kịp sám hối và được tha qua bí tích
hoà giải thì sẽ phải chịu án phạt đời đời trong nơi gọi là hoả
ngục. (x. SGLCG,số 1033-35). Tội nhẹ không cắt đứt sự hiệp thông
với Chúa nhưng cũng gây thương tổn phần nào cho sự hiệp thông
này nên cũng cần được tha thứ và thanh tẩy.
Cả
hai loại tội trọng và tội nhẹ, sau khi được tha qua bí tích hoà
giải, đều để lại hậu quả xáo trộn nhiều ít trong tâm hồn hối
nhân như Thánh Công Đồng Trentinô đã dạy trên đây.
Vì
thế, hối nhân
cần được thanh tẩy mọi hậu quả của tội
qua việc “đền tội” để xoá đi cái gọi là “hình
phạt hữu hạn = temporal punishment” sau khi tội được tha nhờ
bí tích hoà giải. Việc đền tội này, nếu không làm đầy đủ
khi còn sống thì
phải được thanh luyện sau khi chết trong nơi gọi là “Luyện tội
= Purgatory”. Và đây là lý do vì sao Giáo Hội daỵ các tín hữu
còn sống phải làm việc lành và cầu nguyện cho các linh hồn nơi
luyện tội để giúp họ mau thoát khỏi hình phạt hữu hạn nói trên
để gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Đàng, hưởng Nhan Thánh
Chúa đời đời.
Hình phạt hữu hạn không phải là sự “trả thù” của Thiên Chúa.
Cũng không phải vì Chúa không tha thứ hoàn hoàn cho con người mà
vì hậu quả của tội gây ra cho hối nhân cần được sửa chữa mà
thôi. (x. SGLGH CG,số
1472).
Nói
cách cụ thể, ta có thể tạm
dùng hình ảnh này để minh họa cho điều vừa giải
thích trên đây: tội lỗi được ví như những cái đinh
(nails) đóng vào tường. Khi đinh được gỡ
đi thì để lại những lỗ hổng to hay nhỏ trên tường tùy đinh
to hay nhỏ. Ví thế, phải lấp các lỗ này sau khi đinh
được tháo gỡ để mặt tường được nhẵn nhụi, phẳng phiu trở
lại. Việc đền tội
cũng được ví tương tự như vậy. Sau khi được tha, tội ví như đinh
được rút ra khỏi tường nhưng lổ hổng còn để lại. Vậy phải lấp
các lỗ hổng này bằng việc đền tội để tẩy xoá đi những hậu quả do
tội để lại trong tâm hồn hối nhân.
Đó
là lý do vì sao hối nhân phải làm việc “đền tội” sau khi đã xưng
các tội nặng nhẹ với thừa
tác viên có chức thánh là Giám mục hay lịnh mục, tức những người
được quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in personna Christi) như
Giáo Hội dạy.
Cũng cần nói
thêm một lần nữa là xưng tội và đề tội rồi, thì phải quyết tâm
chừa bỏ tội lỗi để luôn sống trong tình yêu của Chúa.Nghĩa là
không được lợi dụng lòng thương xót tha thứ của Chúa để cứ phạm
tội rồi lại đi xưng tội. Làm như vậy là lạm dụng lòng khoan
dung của Chúa và làm hư phép giải tội. Cha giải tội có thể từ
chối ban phép tha tội nếu biết hối nhân cứ xưng đi xưng lại một
tội nhiều lần, nghĩa là không cố gắng chừa tội.
Ước
mong giải thích này thoả mãn câu hỏi được
đặt ra.
LM Phanxicô Xaviê Ngô
Tôn Huấn