Phần thứ hai: Chúa Giê-su nói: Tâm sự của Chúa Giê Su
Ngày 28/12/1967
Chúa GiêSu nói :
”Cha sẽ tỏ cho con những bí mật của trái tim Cha, con hãy nhìm ngắm trái tim Cha trong máng cỏ, chính Cha đã dựng lên thế gian, mà thật, mẹ Cha và Cha nuôi của Cha đã đặt Cha nằm trên máng cỏ.
Ôi, không có chỗ nào cho Cha trên trái đất này. Con hãy nhìn sang bên trái xem. Núi sọ ở búc họa trên tường nhà nguyện. Tay Cha bị trói. Philatô hỏi Cha ‘Chân lý là gì’. Ngày nay cũng còn như thế, kẻ ngoại, người vô thần vẫn lập lại “Chân lý : công thức hóa học có sức tiêu hủy thế giới trong mấy giây” ! Con người văn minh đã tìm ra chân lý kiểu ấy. Nó lấy làm thỏa mãn và không tìm gì hơn nữa.
Một mình Cha, Cha không thể cứu được thế giới hay sao? Cha đã cứu nó trên đồi CanVê, Cha đã đổ đến giọt máu cuối cùng. Nhưng bây giờ tay Cha đã bị trói trước mặt Philatô chỉ vì Cha đã cho con người hồng ân tự do mà Cha không thể rút lại được nữa. Rồi con người đã lạm dụng hồng ân đó.”
Tiếng Chúa vừa nói thật dịu dàng nhưng vô cùng buồn thảm đến nỗi tôi cảm thấy đau đớn như chết đi được .Tôi tưởng như nghe thấy tiếng một người thường, nhưng không , đó chính là tiếng Thiên Chúa.
Chúa GiêSu nói tiếp :
“Chính giáo hội của Cha cũng không nhận ra Cha hiện diện nữa vì nếu nhận ra thì sự việc đã không đến nỗi như thế. Cả một số những người linh mục cũng không nhận ra Cha hiện diện”. Thế chẳng phải là Cha không được ai hiểu mà bị ruồng rẫy đó sao ? Mặc dù Cha là đấng hiện hữu đời đời . Lạy Chúa GiêSu, con có thể làm gì để an ủi Chúa. “ Con hãy yêu mến Cha, yêu mến Cha thật nhiều. Ngoài ra, mọi sự đều thuộc về Cha, trời đất, mọi người, mọi vật ở trong đó. Chỉ có tình yêu của tạo vật không thuộc về Cha mà đó chính là cái Cha đang đi tìm kiếm.”
Ngày 03/01/1968
“Trời sẽ tối tăm mù mịt. Tối tăm sẽ sập xuống khắp mặt đất. Địa cầu như bị bọc trong một chiếc áo choàng đen dày đặc suốt nhiều ngày đêm nhưng chưa phải là tận thế vì hiện giờ Thiên Chúa chưa muốn phá hủy công trình của người. Đó chỉ là sữ tối tăm trong trí khôn của con người, sự tối tăm sẽ lan tràn trên mặt đất cho đến lúc những người không tin Cha, cả những kẻ đã làm lên các phương tiện phá hoại phải bỡ ngỡ, sửng sốt ngước mắt lên trời van xin cho được một chút ánh sáng. Cha không bảo con là các việc đó sẽ đến với con ngay bây giờ vì lúc này còn là giờ của Thương Xót và tha thứ nên các con phải hết sức cầu xin.”
Ngày 09/01/1968
“Ôi, các dòng tu. Ôi, con ơi, hầu hết đã mở rộng cửa đón nhận tinh thần thế tục nên chẳng còn chỗ cho Cha trú ngụ. Đối với nhiều dòng tu, thà đừng có thì hơn. Những canh tân, cải cách đã lôi cuốn họ làm họ thích thú.
Nhưng phần con hãy kiên trì bên Cha để Cha biến con lên dụng cụ ngoan ngoãn của tình yêu hòng cứu thế gian”
Lúc ấy tôi lập lại lời dâng mình làm của lễ hi sinh.
Chúa GiêSu nói :
“Đúng, phải cầu nguyện cho các tu sĩ và linh mục để đừng thêm số các linh mục như thế trong giáo hội nữa vì họ chỉ kính Cha bằng môi miệng còn lòng họ thì xa Cha ”
Ngày 11/01/1968
“Lạy Chúa GiêSu, con muốn hiến thân mình để cầu cho các linh mục và tu sĩ ấy.”
“Đúng, cầu cho các tu sĩ đang buông mình sống không mục đích, cầu cho các linh mục có sẵn trong tay chén lạc thú. Vì để tận hưởng, họ không ngơi uống cho đến giọt cuối cùng. Ôi, đâu phải thế là đường lối canh tân do giáo hội đề ra.”
Ngày 20/01/1968
“Hình phạt chỉ được chậm lại nếu Nước Thương Xót và tha thứ được người ta nhìn nhận và sử dụng. Nước Cha không thuộc về thế gian này, nếu nước Cha thuộc về thế gian này, Cha sẽ ra lệnh cho mọi người, mọi vật phải suy phục Cha, và cả người lẫn vật sẽ suy phục Cha ngay.
Nhưng nước Cha và nước của những ai thuộc về Cha không thuộc về thế gian này. Vì vậy, Cha liên lỉ kêu van với Chúa Cha “Lạy Cha, xin cho họ cũng được ở với con nơi con ở để họ được xem thấy Cha và vinh quang của Cha.Vinh quang mà Cha đã ban cho con.
Có chỗ cho mọi người trong nước Cha và nơi Cha ở Cha ước ao cho hết mọi người được Chúa Cha yêu thương cũng đến đó như chính Cha vì Cha yêu thương Chúa Cha. Trong nước Cha, mặt trời không lặn bao giờ. Đời đời chỉ có mùa xuân và an nghỉ đời đời trong Chúa.
Nào vất vả đời này chẳng phải là ngắn ngủi so với sự vui mừng đời sau đó sao? Trong nước Cha không có đồng hồ tính thời khắc bởi hạnh phúc đời đời không đo lường được. Chẳng có chiều dài, chiều cao, chiều rộng, chiều sâu. Chẳng có thời hạn. Cha đã chọn con làm dụng cụ để chứng tỏ tình yêu của Cha cho thế giới. Con sẽ nghe thấy tiếng Cha trong thinh lặng, Cha nói với hồn con”.
Ngày 23/01/1968
“Bản thảo này có thể kích động giới thiện chí vì trong đó chẳng có gì là nhân loại đặc biệt chẳng có gì là bởi con. Nhưng tất cả là bở Thiên Chúa, điều con không thầy là điều mạc khải cho những người thông thái và những đấng có thẩm quyền.
Có một cái băng bịt mắt con là điều tốt để đức khiêm nhường có thể phát triển trong lòng con nhưng đối với những người khác lại không được như vậy.”
Ngày 29/01/1968
Chúa GiêSu nói
“Con ơi, nỗi phiền cực lớn nhất của Cha đó là những linh hồn ăn ở bất xứng.Con ơi, những linh mục ấy rất nhiều và cứ tăng số mãi. Con hãy viết lên điều đó cho người ta biết, cho người ta đọc.”
Ngày 30/01/1968
“Một trái tim chia sẻ không phải là trái tim dâng hiến Chúa GiêSu. Người là vị lang quân hay ghen tị đòi phải dành cho người trọn vẹn trái tim của hiền thê. Sự hoàn thiện hệ tại không muốn từ chối tình yêu Chúa một điều gì.”
Ngày 03/02/1968
“Con hãy ở bên Cha, hãy ở gần Cha, hãy an ủi Cha. Thế giới các linh hồn không thuộc về Cha nữa vì những linh hồn được Cha cứu bằng máu đã lìa xa Cha. Cha có Chúa Cha ở trên trời, có mẹ Cha, các thánh, các thiên thần, các linh hồn ưu tuyển.
Nhưng còn loài người !
Giá mà Cha có thể nhỏ lại để chết một lần nữa trên đồi Canvê”
Ngày 05/02/1968
“Cuộc chiến thắng sau cùng còn rất xa. Trước đây cũng có nhiều trận chiến cũng phải chiến, cũng phải thắng vì bắt buộc phải tách dê ra khỏi chiên”.
Ngày 07/02/1968
“Con ơi, con thấy rõ không, các dòng tu hiện nay hăm hở lao mình vào việc tông đồ nhưng lại làm việc đó với tinh thần thế tục, họ ôm vào nhiều việc, họ phát triển, họ khuếch trương, nhưng còn Tình Yêu, Tình Yêu thật đối với Cha ở đâu ? Họ đã quá xa Cha, xa tinh thần của Cha, cha muốn cho người ta biết điều Cha nói với con đây. Tất cả những cái đó, thí dụ về từ thiện, bác ái không làm cho Cha hài lòng; Cha đã nói với con điều đó, còn với cha linh hướng, con hãy kể lại với người.
Không đâu, những cái đó không thể làm Cha hài lòng được. Cha không muốn một việc từ thiện bác ái nào giữ trái tim con người xa Cha. Cha muốn tình yêu, tình yêu đích thực, chân thành vô vị lợi.
Cha muốn trái tim con người, nhất là trái tim bạn tình của Cha phải dành trọn cho Cha. Trái tim của các linh mục phải dành cho duy một mình Cha, Cha không muốn thái độ lừng khừng hay tình yêu chia sẻ. Con hãy viết bằng chữ lớn câu này:
“GIÊSU CHỈ MUỐN TRÁI TIM CON NGƯỜI TRƯỚC HẾT CÒN MỌI SỰ KHÁC LÀ SAU”.
Công đồng Vatican II đã đưa đến lộn xộn, vì người ta nói nhiều quá và càng nói thì ý tưởng càng lộn xộn , vì người ta giải thích biết bao vấn đề theo chiều hướng khác với tinh thần công đồng nhưng chỉ có một điều cần là tình yêu. Cha ước ao cho người ta biết như vậy. Chớ gì toàn thể nhânh loại biết cẩn thận để khỏi sa vào vực thẳm.
Hãy sẵn sàng. Chớ gì các linh hồn trở lên như những bông lúa chín vàng để được thu vào kho lẫm đời đời.
Ngày 14/02/1968
“Đấy, tại sao Cha phải héo hắt vì tình yêu, là cốt để tạo vật của Cha nhiệt tình yêu mến Cha. Nếu con muốn cho Cha được sung sướng hãy yêu mến mối tình của Cha đang bị ruồng bỏ, bọ từ chối, bị khinh chê. Tên Cha là Tình Yêu, một Tình Yêu ban phát tất cả. Thiên Chúa là Tình Yêu mà tại sao người ta lại không biết như thế. Con hãy xem, Cha đã thí thân cho con, đã thổ lộ tâm tình với con. Cha biết rõ con sẽ truyền bá thông điệp tình yêu này cho anh em con cách xác thực chừng nào. Đừng thay đổi gì những lời của Cha. Vì đó là những lời con đã nghe Cha nói mà viết ra. Bù lại, Cha sẽ cho con hưởng niềm hoan lạc lớn lao và được thấy sự thăng tiến của các linh hồn nhờ bản thảo này.”
Ngày 03/03/1968
“Hỡi con, Cha còn biết bao nhiêu điều phải nói với con, bản thảo sẽ có những dấu phi thường, Cha có thể làm được mọi sự, Cha sẽ cho con rất nhiều linh hồn để con được giải khát, tất cả những tu sĩ nam nữ đặc biệt là các linh mục phải là những người khao khát các linh hồn. Con không tin thế giới sẽ được thay đổi nếu Cha tìm được những người khao khát các linh hồn ở giữa các tu sĩ và linh mục sao ?”
Ngày 06/03/1968
“Có ai đó được tình yêu của Cha đối với thế giới bao giờ ? Thế mà trái tim Cha không tìm được chỗ nghỉ.”
Ngày 07/03/1968
“Cha muốn nhờ con làm trung gian nhắc lại cho loài người lời giao ước huynh đệ và yêu thương của Cha. Cha là GiêSu anh cả của các con đây. Đừng sợ, Cha là người mà các con đã bán cho người ngoại bang. Áo Cha đỏ thẫm máu đã đổ ra cho tất cả thế gian, nhưng hãy đến với Cha.
Đừng sợ! Cha đã quên tất cả. Cha không hận thù báo oán, chỉ duy Tình Yêu mới có thể thắng, miễn là các con trở về với Cha; Cha không muốn gì hơn; Cha cần tất cả các con ở với Cha; Cha sẽ làm cho các con trở thành những người cai trị trong nước Cha; Cha sẽ mở cho tất cả các con vựa lúa của Pha-ra-on, mà sẽ không còn nạn đói trên mặt đất này nữa nhưng phải hứa một điều là hãy trở về với trái tim Cha.”
Ngày 18/03/1968
“Cha đã bảo hãy coi Cha là Người - Thiên Chúa, vì Cha chính là thế. Cha đã là Trẻ Nhỏ như bất cứ trẻ nhỏ nào và là người như bất cứ ai khác; Cha tìm một chút tình yêu giữa loài người và Cha sung sướng khi gặp được.
Con ơi, con nghĩ Cha thấy gì trong các tu viện ngày nay nói chung và trong mỗi tâm hồn tận hiến nói riêng, có biết bao tu viện trong đó chỉ có rộn ràng và tinh thần thế tục mặc dầu để được hoan hỉ tối đa trong tâm hồn ngày khấn dòng người ta đã từ biệt mọi tiếng ồn ào huyên náo thế gian và long trọng tuyên hứa chỉ muốn nghe tiếng Cha mà thôi. Nhưng nếu thế gian đã rộn rã, om sòm với những vui vẻ giả tạo và sai lầm của nó thì Cha phải ắng đi. Cha làm như thế đó, rồi dần dần hình ảnh Cha biến khỏi mặt đất; biến khỏi lòng người vì họ đã tạo ra một hình ảnh khác thay thế hình ảnh Cha; số các linh hồn tận hiến mặc áo dòng nhưng tâm hồn thì hoàn toàn thế tục đông quá. Nói chung là vậy.”
“Lạy Chúa GiêSu, có phương dược nào để chữa được tệ tật ấy không”
“Thuốc chữa tật đó là toàn thể con người phải trở về với trái tim Cha, đang bị lưỡi đòng đâm thâu trên thập giá mà không ngớt chảy máu ra vì tội lỗi các con, nghĩa là phải trở về bằng tình yêu.
Cha muốn thiết lập trên thế gian một nước mới, nước thương xót, thương xót đến nỗi bỏ xa mọi cảm nghĩ về lẽ công bình và hận thù, về sợ hãi và e lệ, thương xót đến nỗi thông cảm, miễn xá, dung tha tất cả, không giữ lại một vết tích gì về tội lỗi dù rất lu mờ đang đè nặng trên lương tâm của con người, của các quốc gia, các dân tộc.
Đừng một ai sợ. Với tất cả mọi người Cha hứa sẽ đem tình bạn thân thiết, khoan hồng của Cha để đổi lấy lòng chân thành nồng nhiệt yêu mến của họ. Cha muốn mở cho toàn thể nhân loại vựa lúa của Pha-ra-on, làm mưa liên lỉ đêm ngày trên thế giới tội lỗi ấy, không phải để làm lụt nhân loại chết chìm, chết đuối, nhưng để đổ xuống như thác lũ nguồn ơn tha thứ và thương xót.”
“Lạy Chúa GiêSu, còn giáo hội của Chúa thì sao ?”
“Giáo hội sẽ được nhờ thông điệp này trước hết và sẽ phân phát Tình Thương Xót hải hà của Cha, các vựa lúc Pha-ra-on sẽ mở ra và lúa sẽ được phát đầy tay để không còn nạn đói trên mặt đất này nữa sau khi đã lập nước Tình Yêu.
Ngày 24/03/1968
“Thế giới đang bị một làn sóng khổng lồ của ghen ghét và phá hoại ồ ạt nhưng Cha sẽ khôi phục thế đứng của Cha vì Cha sẽ chiến thắng tội lỗi và sự chết. Các tu viện của Cha đã thành hoang vắng như đền thánh Giêrusalem ngày xưa, bị hoang tàn sau khi Cha chết, nhưng rồi sẽ được đầy những hạt giống tốt.
Hỡi con, Cha là Thiên Chúa của con, Cha làm được mọi sự. Người ta sẽ đọc điều con đang viết bây giờ.”
Ngày 02/04/1968
“Cha không làm con kinh hoàng trong tình trạng này chứ? Cha chịu người đời sỉ nhục, chịu xa Chúa Cha, một mình với gánh nặng tội lỗi, chịu đóng đinh thập giá, con còn dám đăm đăm nhìn Cha với cái nhìn với cái nhìn tín nhiệm , cậy trông và tin tưởng rằng Cha là Thiên Chúa của con, là bạn tình của Cha không ?
Tất cả đã bỏ Cha, họ hoảng hốt vì thấy Cha bị thất bại hoàn toàn, có 2 hay 3 người nhìn Cha với đôi mắt mờ lệ. Ôi, Mẹ Cha, Mẹ rất yêu dấu của Cha, Gioan, người môn đệ mà Cha hết tình yêu mến, Madalêna, và con nữa, con cũng ở trong số ấy, Cha nhận ra con và lấy làm sung sương, nhưng còn những người kia đâu ? Phêrô, đá tảng mà bão táp đâm vào nhưng vẫn đứng vững đâu? Giáo hội sơ sinh mà chỉ sau một phút sẽ xuất hiện từ vết thương đỏ thắm của trái tim Cha do người lý hình mở ra đâu?
Giáo hội ấy sẽ xuất hiện như một đoá hoa đẹp nhất của thiên đàng, được cưu mang bằng tình yêu và nuôi dưỡng bằng máu cha. Ôi hiền thê yêu dấu, ôi Giáo Hội sơ sinh, thậm chí cho đến nay ta vẫn chưa thấy bạn ở gần ta, bạn đã khuất mặt ta, bạn đã tránh xa người gây dựng lên bạn, ta chỉ có một mình thôi, đáng sợ chừng nào?Cô đơn và bị bỏ rơi trên thập giá đã làm lên cái chết dữ dằn gấp đôi. Một trái tim nhạy cảm đau đớn biết bao khi bị những người mình yêu mến bỏ rơi.
Cha không biết tìm đâu một tấm lòng bạn thân thiết và trung thành. Cả trời đất đã mưu phản con Người đã lên lễ hi sinh đền tội. Phải, Giáo Hội sơ khai của Cha đã ẩn náu và còn ẩn náu như thế trong mọi thời đại chỉ vì thiếu đức tin vào Cha, vào lời Cha.
Có biết bao nhiêu người của Cha đã đào ngũ chỉ vì thiếu đức tin. Chỉ vì thiếu đức tin mà xảy ra biết bao hư hỏng bây giờ cũng như xưa, Cha đã để lại Tin Mừng đã được ghi chép rồi, nhưng con hãy viết nữa đi, vì nhân loại đã quên mất Tin Mừng, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin. Chính đức tin mới cứu rỗi, nếu còn đức tin trong giáo hội Cha thì con rồng hỏa ngục đã không đưa về được nhiều chiến thắng đến như vậy.
Khoa học là ảo tưởng và sẽ tiêu diệt nhân loại thời mới này. Khoa toán học chứng minh rõ ràng các sự kiện nhưng đồng thời lại làm hư hỏng các linh hồn và các dân tộc vì cái gì cũng được chứng minh một cách máy móc, cả đến người mù cũng quay về với một số chứng minh nhưng đức tin chỉ được hướng qua làn sương mù mà thôi. Đó là lý do tại sao người ta khó tin vào Cha, người ta cố gắng tìm tòi khám phá và nếu có thể đồng cả ý tưởng của Thiên Chúa.
Tất cả những cái đó được họ gọi là tiến bộ mà cập nhật hóa. Họ làm như Thiên Chúa cũng phải canh chừng mà lập đi lập lại với chính mình. Con người đã đặt tay vào trái cấm rồi, nó muốn chính mình cũng trở lên Thiên Chúa. Con rất yêu dấu, trái tim Cha buồn sầu và tràn đây nhục nhã, Cha còn phải làm gì hơn nữa để cứu các con, nếu đối với các con Cha còn thiếu phương cách nào thì Cha muốn biết phương cách đó là gì ? Cha đã và còn đang tiếp tục hiến thân mình làm của lễ hi sinh đền tội nhưng hình như vẫn chưa đủ.
Nay Cha có thể kéo chú ý loài người tới hình phạt. Nhưng không, vì Cha là Thiên Chúa, là tình yêu muốn cứu lại những gì đã hư mất. Chính Cha là người mang lại chiến thắng. Cha sẽ làm cho điều ác phải hổ thẹn vì điều thiện và làm cho tội phản phúc phải xấu hổ vì lòng nhân hậu, khoan dung. Cha đã quên đi hết, sẽ bắt đầu lại tất cả, Cha sẽ canh tân thế giới, sẽ có một thế giới mới xuất hiện, nhưng trước hết Cha muốn canh tân Giáo Hội , các thừa tác viên, các linh hồn tận hiến, các bạn tình của Cha, Cha sẽ cho Giáo Hội của Cha một bộ mặt mới đầy tươi trẻ. Giáo hội sẽ được mặc áo cưới, Cha sẽ trang sức cho giáo hội bằng những đá ngọc quý và giáo hội sẽ tiến ra rất xinh đẹp, trẻ trung qua nhiều thế kỉ, các thừa tác viên của Cha đi theo giáo hội sẽ là những gương mẫu không ai chối cãi được về chân lý, về đức tin, sẽ là các bạn tình chân thành, thanh khiết và khiêm nhường của Cha.
Thành Giêrusalem mới sẽ hát bài giải phóng như trong thời Cựu Ước sẽ hát bài Hãy Vui Lên, nhưng con ơi, đời sống lý tưởng ấy, càng ước ao bao nhiêu, càng cần đòi người ta từ bỏ mình bấy nhiêu, quả thật, Cha đã dựng lên con người tự do và Cha cần có những người lành cộng tác để canh tân thế giới. Chỉ cần một ít đức tin, cũng đủ đốt cháy lại tình yêu trong lòng người và tình yêu sẽ làm được mọi sự.
Ngày 09/04/1968
Thứ ba Tuần Thánh.
“Con hãy nói với Cha linh hướng là bắt đầu từ hôm nay Cha ban ơn khoan hồng vĩ đại nhất, Cha tha thứ các lỗi lầm. Cha kéo các linh hồn lại gần Cha và sẵn sàng tha cho họ để đổi lấy một tình yêu nhiệt thành. Đối với những người Cha khao khát nước từ bi thương xót bắt đầu, còn đối với thế giới là từ khi bản thảo này được biết tới”.
Ngày 21/04/1968
Sau khi tôi chịu lễ, Chúa GiêSu nói :
“Nhan thánh Cha, Cha hứa cho con ở trên trời, lúc này đang hết sức rực rỡ, huy hoàng trong tâm hồn Cha. Con hãy xem, các linh hồn đã không biết đón nhận thánh giá trong những gian nan, đau khổ, đó là vì họ không biết hết tất cả những gì Cha phải chịu khi thấy nhân loại đau khổ. Cha đã đổ máu ra để tránh đổ nước mắt cho mọi người. Cha muốn mang trên mình gánh nặng đau khổ của nhân loại và chịu một mình như Cha đã làm thế trong cuộc khổ nạn.
Tuy nhiên, nếu người ta thấy được vinh quang ngày sau sẽ dành cho đau khổ đời này , thế nào thì chính họ cũng xin Cha gửi thánh giá và đau khổ đến cho họ. Cha muốn đưa mọi linh hồn vào nước Cha trên trời, đó là lí do tại sao Cha viếng thăm các tâm hồn trong đau khổ. Nhưng ít có ai, kể cả các tâm hồn tận hiến dám đi sâu vào mầu nhiệm tình yêu. Cha là tình yêu, tình yêu luôn luôn muốn ban phát nhưng nào có ai hiểu Cha, rất ít linh hồn hiểu thấu tình yêu của Cha. Bởi vì nhân loại đã trở thành củi khô dễ đốt và toàn thể nhân loại sắp trở lên một hỏa lò mênh mông.
Từ ngày có thế giới, chưa ai thấy như vậy bao giờ, đến nỗi các tầng trời cũng phải lấy cánh che mặt lại. Con ơi, tại sao Cha ít nói với con về chuyện ngày nay vì sợ con xỉu mất. Con hãy kể lại với Cha linh hướng và nói là Cha cho phép ngài được tỏ bày với các cha khác, những Cha có thẩm quyền nhất, thánh thiện nhất, khôn ngoan nhất cũng biết nữa. Còn con thì đừng nói gì với ai khác.
Sau cùng con hãy lập lại rằng đừng coi Cha như một người không có thật hay chỉ như một nhân vật của thời xa xưa, hay chỉ là một anh hùng của lịch sử vì Cha là đấng luôn luôn hiện diện và hoạt động trong lòng người. Cha là người bạn trung thành không phản bội không bỏ rơi bạn mình bao giờ. Cha luôn luôn sẵn sàng dang tay vì tình yêu đó lấy tạo vật của Cha.
Ngày 04/05/1968
Chúa GiêSu nói :
”Dân ông đã nộp ông cho tôi !”. Cha biết điều đó lắm, luôn luôn là dân Cha nộp Cha, “Ông đã làm gì, ông không trả lời tôi sao ? Ông không biết là tôi có quyền đóng đinh ông hay sao ?”
Nhưng hỡi Philatô, ngươi lo tuyên án cho ta làm gì vô ích? Bởi chính ta, ta đã tuyên án cho ta rồi. Chúa Cha đã kí bản án và chữ kí của Người có quyền trên mọi giá trị luật pháp. Các thiên thần làm chứng điều đó. Lý hình, hãy sửa soạn thập giá.
Đó là bản án đã được kí và được ấn định trên trời từ đời đời vì thế giới đã sa vào vực thẳm và phải cứu nó. Ôi, dân ta, ta đã làm gì cho ngươi ?
Ta đã yêu ngươi bằng một tình yêu không thể hiểu được. Cha ở đâu, Cha cũng muốn cho loài người ở đó với Cha.
Con chưa biết Cha đâu, Cha đồng bạn với con, chia bánh vui mừng, đau khổ với Cha nhưng con không biết nhìn Cha tận mắt bằng cặp mắt đầy lệ của con trong đôi mắt rực sáng của Cha. Cha ở với con trong cùng một nhà, Cha sống với con, Cha là người bạn thân trung tín nhất, thế mà con lại đi kể lể nỗi lòng với một người nào khác để họ phản bội con ngay khi có dịp đầu tiên.
Có thể là con chưa biết Cha chăng ? Cha là GiêSu, chỉ cần gọi tên Cha là Cha đến liền, Cha đến ngay tức khắc để cứu và chuộc lại những gì đã hư mất, cho dù của sở hữu có bị bán cho ngoại bang.Cha cũng sẽ chuộc lại và đem về cho con.
Chỉ cần gọi Cha ban sáng, ban trưa, ban chiều, hoặc muộn hơn nữa vào lúc đêm khuya là Cha đến ngay, không bao giờ Cha để con phải đợi, hãy gọi Cha bằng tên Cha, hãy gọi Cha bằng GiêSu, tên đó có đầy đủ ý nghĩa.
Cũng chẳng cần con quỳ gối trước mặt Cha vì chính Cha là người rửa chân cho con như Phêro và các môn đệ khác. Nếu con nói với Cha như Phêro, là con không muốn, Cha sẽ trả lời rằng con không biết việc làm bây giờ nhưng sau sẽ hiểu, Cha sẽ rửa chân con, những bàn chân đi trên đường trơn trượt và bị thương vì vấp vào đá. Đúng, Cha sẽ lau, sẽ chữa, sẽ hôn và con sẽ được lành và sẽ không biết đường nào khác ngoài con đường dẫn đến với Cha.
Nhưng tại sao con lại cố chấp, không muốn nhìn thẳng vào mặt Cha, không muốn Cha rửa chân, con là đứa trẻ thất thường, cố tình không muốn tin vào kẻ muốn làm ơn cho mình, sao con không biết rằng nếu Cha không rửa cho con, con sẽ chẳng được thông phần với Cha. Vậy, hãy nói với Cha như Phêro, “Lạy Chúa”, không, đừng gọi Cha là Chúa, “Ôi, Giêsu, vậy xin Giêsu hãy rửa chân cho con, chẳng những chân mà cả đầu nữa, miễn là con được nghĩa cùng GiêSu.
Tiệc đã dọn sẵn mà những người được mời không đến. Vì thế Cha sẽ gọi thật to và làm cho tiếng các thiên thần của Cha vang dội khắp bốn phương, từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, Cha sẽ tụ tập những người đã được Cha cứu chuộc về quanh bàn tiệc đã được dọn sẵn sàng, chu đáo do các thiên thần của Cha.
Và bấy giờ sẽ chỉ còn một nước, Nước Tình Yêu. Con yêu dấu, hãy viết tất cả các lời của cha đã đọc cho con, những lời này sẽ ngọt như mật và êm ái cho nhiều linh hồn.
Ngày 17/05/1968
“Những lời Cha đã nói sẽ phát sinh kết quả trong nhiều linh hồn vì sự chính xác, vì tính hợp thời và vì cảm xúc mạnh mẽ. Cha sẽ ban cho những ai đọc nó được ơn hối lỗi và trở về với Cha. Bản thảo sẽ thâm nhập hết mọi nơi, nhà giam, nông trại, gia đình, trường học, tu viện. Nó sẽ là quyển sách tùy thân của các linh mục và các linh mục trở về với tình yêu Cha sẽ rất đông.”
Ngày 25/05/1968
“Con hãy viết và làm nổi bật lên những lời này “Những đau khổ và cay đắng lớn nhất Cha phải chịu là do các linh mục và các tu sĩ , khi các con đi không bao bị, không tiền bạc, không giày dép, các con có thiếu gì chăng ? Hãy nắn lại những khúc đường quanh co, hãy san bằng những lối đi ghồ ghề, Cha đã an bày quan phòng cho hôm qua, hôm nay và cũng vẫn như thế cho cả ngày mai nữa, không bao giờ thiếu sự gì cho người tin cậy vào Cha, các con hãy làm chứng về Chúa Kito ở Giêrusalem và cho đến tận cùng trái đất, các con hãy là những nhân chứng xác thực của Chúa Kito, hãy trút bỏ mọi quyến luyến nhân loại, từ bỏ tư lợi danh vọng , tiền bạc, thần tượng của thời đại này. Đó, những linh hồn đã tận hiến cho Cha phải như thế đó.Con ơi, con hãy gạch dưới những lời Cha sẽ nói với con đây “Những đau khổ và cay đắng lớn nhất Cha phải chịu là do các linh mục và các tu sĩ””. Ngày 08/06/1968
“Nhân loại tiến nhanh vào về cuộc Thanh Tẩy vĩ đại, về việc canh tân nhưng điều đó không thực hiện được nếu không chịu phiền cực và đau khổ, mặc dù sự ác như thắng đoạt sự thiện hoàn toàn nhưng một số ít người sẽ là nhân tố mới giống như Abraham để sinh ra con cái thật của Thiên Chúa.
Trận giao tranh đã bắt đầu và sẽ luôn diễn tiến ác liệt đến độ chỉ còn ít lòng tin cậy cả nơi những người lành. Tất cả coi như bị hư hỏng hết, người ta sẽ kêu lên “Lạy Chúa,xin cứu chúng con kẻo chết mất”.
Chỉ có lúc đó, họ mới nhớ ra rằng duy chỉ có một mình Thiên Chúa mới cứu vãn được. Các nền văn mình cần phải được canh tân dần dần như lịch sử đang chứng minh, các nền văn minh ấy đã già cỗi, người ta phải tái thiết bằng nền văn minh mới. Đó là trường hợp ngày nay.
Ngày 01/07/1968
“Thật là phiền cực cho Chúa Cha vì không thể tụ tập con cái Chúa dưới một mái nhà chung quanh một bàn ăn để họ cùng thông phần gia tài của Người. Đây là lúc đức mến đã nguội lạnh trên thế giới nhưng cũng là lúc để canh tân.
Sau một mùa đông giá lạnh, người ta sẽ cảm thấy một mùa xuân ấm áp.Mùa xuân ấy sẽ thức tỉnh tất cả những gì đã ngủ.
Cũng thế, nhờ hơi thở hồi sinh mới, mọi tạo vật sẽ được thức tỉnh khỏi cơn hôn mê của thế giới cằn cỗi, với các thế hệ mới, có các giáo hội mới, giáo hội sẽ được mở ra trong mùa hoa lộng lẫy sắc hương của tuổi trẻ vĩnh cửu và trong đức mến vô biên của đấng sáng lập.
Sẽ có cả một thế giới mới của an bình, của hòa thuận và yêu thương. Đó là lời ngợi khen Thiên Chúa Hằng Hữu. Đó là thế giới được canh tân trong hi sinh, trong đau khổ.
Ngày 06/07/1968
Bây giờ là 12h30 đêm, con hãy dậy cầu nguyện, tôi nghe có tiếng chân bước vội trên sỏi ngoài sân dưới cửa sổ, và một chìa khóa lớn quay vào trong cánh cửa chính, cánh cửa này không có ổ khóa bên ngoài, rồi im bạch. Chúa phán:
”Đó là một linh hồn đi lang thang“.
Tôi hỏi: “Lạy Chúa, có phải chị con không ?” …
“Không đâu, chị con đã ở trên Thiên Đàng rồi, đó là một linh hồn đi lang thang ”.
Tôi hiểu đó là một linh hồn tận hiến.
“Lẽ ra sau giờ chết đã được đi đến nơi dành cho họ là Thiên Đàng mà họ lại phải sa vào án phạt theo lẽ công bằng của Cha thì còn sự bất hạnh nào mà không phải là của họ.”
Hết sức sợ hãi tôi vùng dậy quỳ gối và cầu nguyện. Lúc đó là 12h45 đêm, tôi kêu lên: “Lạy Chúa, con có được vào thiên đàng không ?”.
”Có, nếu con cứ ngoan ngoãn”.
Tôi âu yếm hôn bức họa “Này là Người” đồng thời lập lại những lời còn đang phảng phất trong trí “Nếu không được ào thiên đàng, tôi sẽ bất hạnh biết bao !”. Chúa GiêSu nói :
“Chắc chắn như thế đó con.”
Tôi lại đặt mình xuống giường nhưng sợ hại lắm. Có tiếng chị tôi nói với tôi :
“Không, em không cần phải sợ vì tất cả đó là ơn Chúa thương ban cho em và cho thế giới nữa”.
Chúa GiêSu nói :
”Lẽ công bằng của Cha đó, con hãy kể lại cho Cha linh hướng tất cả, hãy vâng lời ngài trong mọi sự và làm điều ngài dạy. Chính Cha là chủ, Cha sẽ làm như Cha muốn”.
“GiêSu, con sợ lắm” .
“Không, con không được sợ Cha !”
Bây giờ là 1h30 đêm, tôi muốn ngủ lại để quên đi tất cả, bỗng nhiên tôi nhớ đã rất nhiều lần tôi nghe đập mạnh ở cửa phòng, có khi giờ nghỉ trưa, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Chúa GiêSu nói:
“Con muốn ngủ trong khi Cha phải thức vì kẻ thù đang lùng bắt Cha sao? Cha ở trong vườn Cây Dầu, bị căng thẳng, bị kiệt sức, toàn thân đẫm máu ”.
Nghe tiếng Chúa than thở như thế, tôi lại xuống khỏi giường quỳ cầu nguyện. ”Hỡi con, sự lo nghĩ của con không những hướng đến các linh hồn còn tại thế mà còn phải đến với một số đông các linh hồn đang đau khổ trong luyện ngục nữa. Con số đó còn lớn hơn số các vì sao trên trời và cát dưới biển. Những linh hồn ấy lẽ ra đã được hưởng vinh quang trên trời, hát mừng ngợi khen Thiên Chúa, nhưng vì họ chểnh mảng, vô tư, sống buông trôi theo tính tự nhiên như thể giờ tính sổ không bao giờ đến.
Con đừng sợ, với Chúa GiêSu, con không được sợ. Đó là ơn ban cho con và cho cả thế giới; chớ gì người ta biết điều đó; cơn khát các linh hồn của con có giới hạn nếu không trải nó ra cả một đại dương cho các linh hồn trong luyện ngục đang mong được cứu thoát.
Vinh quang của Cha đòi con điều đó. Cha đã nói nỗi đau khổ lớn lao đau đớn nhất mà Cha phải chịu đó là do số đông các linh mục mà với biết bao ơn Cha đã ban lẽ ra họ đã được vào Thiên Đàng ngợi khen Thiên Chúa rồi.
Trong giáo hội người ta đã thay đổi các giáo thuyết về các chân lý chính yếu của đức tin. Ngày nay người ta chỉ nói rất ít hoặc không nói gì về thiên đàng, hỏa ngục, luyện ngục dù những nơi đó vẫn có thật.
Có rất nhiều linh hồn tận hiến đã phải chết khốn khổ như họ sống vì đời tu như gươm 2 lưỡi. Nếu người ta sống trong từ bỏ mình và yêu mến Cha thì đời tu sẽ mở rộng cửa trời, còn nếu họ sống ngược lại thì nó sẽ làm Cha tăng cực hình. Rất nhiều linh hồn tận hiến phải ở luyện ngục bằng bao thế kỉ, chứ không phải chỉ nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày. Còn một số phải ở đó cho đến tận thế nữa. Với tất cả những gì Cha đã làm cho các con.
Hỡi các linh mục và tu sĩ , tại sao các con không sống đúng với đời sống của mình. Đau khổ cho Cha biết bao khi phải đưa họ ra xa Cha, xa nhan thánh Cha từng rất nhiều năm. Bằng một ngôn ngữ có thể hiểu được, Cha xấu hổ vì sự thua thiệt của một số linh hồn, Cha gửi họ vào luyện ngục và Cha bảo họ “Thôi, bây giờ hãy rảo khắp thế giới và ăn mày ơn cứu thoát khỏi ngọn lửa thanh tẩy đi vì ơn cứu chuộc và máu ta đổ ra không đủ cứu các con”.
Chính vì thế họ phải vào số đi lang thang khắp mặt đất ăn mày đôi lời cầu nguyện của các linh hồn quảng đại. Vì đối với những linh hồn tận hiến ấy, án công bằng của Thiên Chúa luôn luôn nghiêm phạt. Ôi, nếu người ta có thể thấy được phận hư vong khi bỏ phí các ơn của Cha, các linh hồn ấy như những đứa trẻ, Cha nó đã hi sinh cho nó tất cả để cho nó ăn học thế mà cuối năm nó chỉ đem về cho Cha nó một thất bại ê chề, Cha tự hỏi : thế còn ăn thua gì tất cả những đau đớn, khổ cực Cha đã chịu trong cuộc tử nạn.
Đó là những lời cảnh tỉnh đáng sợ Cha báo cho thế giới biết về các linh hồn đã tận hiến cho Cha.”
|