“TA KHÔNG
ĐẾN ĐỂ BÃI BỎ NHƯNG ĐỂ KIỆN
TOÀN”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1.
Nguyên tắc chung: “không bãi bỏ,
nhưng kiện toàn”.
Leo lên ngọn núi Sinai
mới, Đức Giêsu, trong các mối phúc của nình,
trước tiên, tán tụng cảnh sống hạnh phúc
của các môn đệ qua lời mở đầu của
bài giảng trên núi: "Phúc cho những tâm hồn nghèo khó:
vì nước trời là của họ”. Đoạn ngài,
minh định sứ mệnh trao phó cho họ: "Các con
là muối đất... các con là ánh sáng trần gian"
tiếp đến trung tâm bài Hiến chương, Ngài
mạc khải cho các người của mình sự mới
mẻ hoàn toàn của Tin Mừng. Bản văn mang
đậm dấu ấn của thánh Mátthêu này gợi lên áp
lực lưỡng diện đang đè nặng trên
những cộng đoàn Kitô giáo.
Trước
tiên, là áp lực ngoại tại của hội
đường, nhân danh lề luật bắt bớ các môn
đệ của Đức Giêsu. Sau đó, là áp
lực nội tại của các cộng đoàn tín hữu
bất nguồn từ Do thái giáo, "truyền thống
hơn " đôi khi co vào sự tuân giữ lề luật
theo nghĩa ngữ, đối lại với các tín hữu
xuất thân từ đa thần giáo, luôn tìm cách gièm pha
lề luật Giáo huấn của Đức Giêsu sẽ
sửa lưng cả hai. Quả thật, Ngài tuyên bố
rằng mình "không đến để bãi bõ lề
luật hay các tiên tri, mà để kiện toàn" nghĩa
là thể hiện một cách viên mãn, hoàn hảo trong tình yêu
và tự do của Con cha trên trời. Vì thế, từ nay
"sự công chính" mới hệ tại không phải
ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập
tục, nhưng là "khuôn mình" theo
thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu. Sống trong cộng
đoàn với tình yêu và tự do của con cái có thể,
mới “công chính" hơn các luật sĩ và biệt phái
được Thánh Irênê thành Ly-on, vào thế kỷ thứ
hai đã hỏi: như vậy, khi đến trần gian
này, Chúa đã mang theo những gì? Ngài
đã mang theo sự mới mẻ hoàn
toàn bằng chính con người của Ngài.
2.
Những áp dụng cụ thể
Tiếp sau là năm
phản đề cụ thể hóa "sự công chính
mới" sẽ là bài học áp dụng nguyên lí tổng
quát này vào cuộc sống tín hữu, vì chính toàn thể lề
luật Phúc âm phải bao bọc toàn thể cuộc
sống các môn đệ. Năm hình ảnh, mà chúng ta sẽ
theo dõi trong bài đọc chúa nhật
tới, đều bắt đầu với công thức
"Anh em đã nghe biết người xưa dậy
rằng... còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...
" Một kiểu nói trống để tránh dùng tên
Thiên-Chúa, có nghĩa là "Thiên-Chúa đã phán ", "anh em
đã nghe biết khi lời Chúa được công bố
long trọng trong hội đường", đối
lại, Chúa đưa ra những xác quyết của riêng
mình "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết".
Theo Jean Potin, "Đức Giêsu tự giới thiệu
như là một Môse mới, không chỉ đủ thẩm
quyền giải thích luật lệ của Thiên Chúa, mà còn
cách tân: luật Chúa đã bảo anh em...nhưng Thầy,
Thầy bảo anh em...ngài còn hơn cả luật Môsê
mới nữa vì Ngài không chỉ bằng lòng nói về
lề luật mới như một nhà làm luật, mà còn
cắt nghĩa cho người cụ thể để
họ gắn bó ngày càng mật thiết hơn với
Thiên-Chúa Cha, là Đấng mà họ phải nên hoàn thiện
như Người. " (Đức Giêsu, lịch sử
đích thực, Centurion, tr. 198) Minh họa đầu tiên là
“mối tương giao huynh đệ” Thập giới
truyền bảo "ngươi không được
giết người'? Còn Chúa Giêsu, đi đến
cùng chung đòi hỏi cua lề luật,
đã tuyên bố rằng, nguyên việc không phạm tội
sát nhân thôi: chưa đủ, mà còn phải loại bỏ
nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa.
J.Potin viết “Trong thập giới của Môsê, lên án tội giết người thuộc
giới răn thứ năm. Ở đây, nó
được nói đến đầu tiên, chắc
chắn vì nó bao hàm một cách tiềm ẩn giới răn
tràn đầy bài diễn từ trên núi tình yêu tha nhân,
thực tế trong tình yêu tha nhân...trở thành giới
răn đầu tiên: Đức Giêsu đã thấy mầm
mống của giới luật yêu thương này trong
điều răn lên án việc giế người. Kính
trọng sự sống người khác mở
đường cho việc bày tỏ tình yêu ân
cần hơn đối với tha nhân. Cả hai
đều phải được xem xét trước
mặt Thiên-Chúa là Đấng mà Đức Giêsu sẽ là
quan án và hiền phụ”. (Sách đã
dẫn, tr. 198-l99)
Hai ví dụ ở ngôi
thứ hai số ít "anh" tiếp nối mình hoạ
thứ nhất "vì thế, khi anh sắp dâng lễ
vật trước bàn thờ…”xung đột là mầm
mống sát nhân, và hòa giải là một bổn phận
cấp thiết hơn cả việc dâng của lễ cho
Thiên-Chúa: "hãy đi làm hòa với người anh em
trước đã rồi hãy trở về dâng lễ
vật của mình" hãy mau mau dàn xếp với
đối phương": thù oán dây dưa, ngày sau sẽ
vô phương cứu chữa trước tòa án Thiên-Chúa.
Minh họa thứ hai nói về
mối tương giao nam nữ trong đời sống hôn
nhân. Trong Do Thái giáo,
thủy chung là nền tảng của
đời sống hôn nhân: nó được chứng
thực bằng sự thủy chung của Thiên-Chúa
đối với giao ước và với dân riêng
người. J.Potin cắt nghĩa: "Hôn nhân không chỉ
là một khế ước có tính luật pháp. Nó ràng
buộc con người tự đáy lòng họ. Vì thế khi người đàn ông đã có vợ thèm
muốn vợ người khác là đã phạm vào dây hôn
phối. Trái tim đã chệch
khỏi Giao ước của nó. " (Sách
đã dẫn, tr. 199).
Minh
họa thứ ba nói đến những lời thề
hứa mà người ta cho rằng sẽ mạnh hơn
khi nại đến những thực tại ít nhiều
thánh thiêng: "Chỉ trời, chỉ đất,
chỉ Jerusalem... " Đức Giêsu xác quyết, đừng
thề gian không thôi chưa đủ còn phải diệt
trừ khỏi lòng ta sự lập lờ, bất chính,
đa nghi nữa, không được đi xa hơn
lời nói chân thực gian dối: "khi các ngươi nói
có" là phải "có '! Mức qui định mà
Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ là: biến
đổi tấm lòng để có thể hiệp thông
với những tình cảm của Thiên-Chúa được
biểu hiện trong Đức Kitô con Ngài. Như
đức cha L.Daloz viết "Đối với các môn
đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc
thực thi các mệnh lệnh. Đúng hơn, đây
chính là việc để cho các luật kiện toàn chính
mình, đưa mình đi tới cùng ("Nước
Trời đến gần", Desclée đe Brouwer, tr. 51)
BÀI ĐỌC THÊM:
1.
“Hãy để cho lề luật kiện toàn chính chúng ta”
(Đức
cha L. Daloz. trong nước Trời đến gần! Desdée de
Brouwer, 1994, tr 51).
"Đức
Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách trả lại
cho nó tất cả sự trong sáng của lời Thiên Chúa,
khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: "Ta
muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế."
Khi được hỏi về giới răn trọng
nhất. Ngài không do dự trả lời rằng toàn bộ
lề luật và tiên tri đều qui về giới răn
trọng nhất là yêu mến Thiên-Chúa hết lòng, hết
linh hỗn, hết trí khôn và yêu thương anh em chính mình.(Xem 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn
giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến
đời mình. Phần các môn đệ,
kiện toàn lề luật khác hẳn việc tuân thủ
các mệnh lệnh. Đúng hơn, chính
lề luật kiện toàn ta, đưa ta đi cùng.
Có thế mới đáng để ta tuân giữ giới
răn nhỏ bé nhất thậm chí cho tới một nét
phẩy - không phải vì tỉ mỉ hay cầu toàn,
nhưng vì tự hiến hoàn toàn, mở lòng trọn
vẹn, để lời của Thiên-Chúa thấm nhập
và biến đổi tận đáy lòng ta, và biến ta nên
hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo. Đây không phái là sự nô lệ ma là tình
nguyện. Nó không bao giờ kết thúc vì
ta luôn bất toàn. Đây là sự rèn luyện
trường kì về tính sáng suốt và lòng can đảm.
Trước tiên, đây là một hồng ân, một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng
muốn và thực hiện nơi ta điều đó
đây chính là tác phẩm của Chúa Thánh Thần,
Đấng đến để sản sinh trong ta
những hoa trái của người, như vậy kiện
toàn lề luật là ghi khắc nó vào tận đáy lòng
ta..."
2.
“Sự cấp tiến của bài giảng trên núi”.
(J.
Guillet, Đức Giêsu trong niềm tin của các môn
đệ tiên khởi. Desclée de Brouwer, 1995).
Tính cấp
tiến này không hề nệ luật. Điều
hay nhất của bài giảng là không có thêm một điều
khoản bổ túc, một đòi buộc mới nào. Nhưng là không cho phép bất cứ ai tự tin
mình đã đạt đến sự công chính cao siêu
cả. Nó bắt mọi môn đệ tự do
tưởng tượng, tiến xa hết mức trong
việc phục vụ và trong tình yêu tha nhân. Giới
luật đặc thù của Tin Mừng luôn có tính tích
cực. Tại chỗ mà luật cũ mang tính
tương đối và hạn định một
giới hạn không thể vượt qua "Ngươi
không được giết người, không
được phạm tội ngoại tình
" thì Đức Giêsu lại công thức hóa chúng theo
đường hướng tích cực: trước
hết, hãy đi làm hòa đã, hãy móc mắt phải mà nén
đi. Ta phải biết nhận ra nguyên lí nền tảng
đàng sau những phóng đại quen thuộc theo kiểu nói Phương đông, anh không
được đặt giới hạn cho tình huynh
đệ, cho việc tôn trọng phụ nữ."
3.
“Cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất từ
trước tới nay”
(H. Denis 100
từ nói lên niềm tin: Desclée de Brouwer, 1993).
"Bạn
có biết thập giới không? Có lẽ bạn có
thể đọc thuộc mười điều răn
bằng văn xuôi hay văn vần, điều đó không
quan trọng. Điều quan trọng hơn,
đó là biết được điều Đức Giêsu
đã làm đối với thập giới. Ta có
thể nói với Ngài rằng Lề Luật, không bị
hủy bỏ, nhưng được thăng tiến
để được kiện toàn. Nói cách
khác, ta cũng phai để ý kẻo khi vượt lên
lề luật, ta lại khinh thường nó bằng cách
bám víu vào đó như Đức Giêsu chưa từng
kiện toàn nó vậy. Với cái nhìn này, bài giảng
trên núi có lẽ là cuộc cách mạng tôn giáo vĩ
đại nhất của mọi thời. Một con
người, một vị tiên tri, một sứ giả
của Thiên-Chúa dám nói lên những lời chưa từng
nghe, anh em đã nghe Luật dạy "người xưa
rằng, còn thầy, Thầy bảo cho anh em biết”:
Vị Giêsu này vượt trên cả lề luật. Bạn hãy tưởng tượng xem Luật
dậy người xưa. Luật
ở đây là ai? Thật đơn giản. đó chính là Thiên-Chúa của Cựu
ước, Đấng đã ban Lề Luật. Vì thế
mà đối với người Do thái, không ai có thể
vượt hơn Lề Luật, hơn được
Lời Thiên-Chúa đã trao ban một lần cho đến
muôn đời được: Vậy mà, có một
người đã dám vượt trên Lề luật,
bạn hãy lần lượt xét kỹ từng giới
răn rồi sẽ thấy, quả thật, khi đã
biết Đức Giêsu là ai rồi, người ta sẽ
thấy các giới răn thiêng liêng này thật tương
đối so với một điều cao cả hơn
nhiều là nhận ra Tình yêu được biểu lộ
nơi Đức Giêsu, con Chúa Cha. Luật
dạy người xưa rằng, còn Thầy, Thầy
bảo cho anh em biết. Có lẽ các bạn đã
biết đây là một trong ba luận cứ mà thần
học đã rút ra từ Tin Mừng, coi như để
mạc khải thiên tính của Đức Giêsu (một
Đức Giêsu, may thay không bao giờ tự xưng: ta là
Thiên Chúa, nhưng anh em bảo Thầy là ai? Các bạn
cũng biết hai luận cứ kia là gì
rồi. Thứ nhất đó là việc
gọi Thiên Chúa là Cha, người Cha (Abba) thân thương
thực sự. Sau đó là lời yêu sách
quá quắt. Mọi tội con đã được tha
‘chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi’.
Bạn thấy lề
luật được kiện toàn này đưa ta
đến đâu vào những lúc nghi nan,
hay những giây phút mỏi mòn vì phải trung thành với Lề
luật, bạn hãy nhớ đến sự can đảm
của Đức Giêsu: “Luật dạy người xưa
rằng, còn Thầy, bảo cho anh em biết."