ÔNG GIÀ NÔEL LÀ AI?
6/12
Thành Patara thơ mộng, một thành phố cổ thuộc miền Tiểu
Á, ngày nay nằm ở vùng nam duyên hải Thổ Nhĩ Kỳ. Trên ngọn đồi,
Nicholas ngồi bên tảng đá, chàng hết ngắm nhìn biển xanh rồi lại
quay nhìn ngôi nhà xinh xắn của chàng. Rất nhiều lần chàng đã ngắm
nhìn như thế, nhưng hôm nay chàng mới để ý nhà chàng đẹp và sang
trọng nhất thành. Chàng liên tưởng tới song thân đạo hạnh mới lần
lượt vĩnh biệt chàng đi vào thế giới vô hình, để lại cho chàng một
gia tài kích xù. Chàng nhớ đến những chiếc rương nặng, đầy vàng
bạc và châu báu đang khóa kỹ tại kho tàng nhà chàng…..
Nicholas chậm rãi hướng cặp mắt lên bầu trời muôn mầu
sắc lúc hoàng hôn, chàng thầm thĩ cầu nguyện:
-Lạy Chúa, Ngài biết rằng con không cần đến mọi của cải
đó. Con ước ao phụng sự Ngài. Xin Ngài dậy con phải làm gì!
Nicholas hiểu rằng Chúa sẽ không trực tiếp trả lời
chàng, nhưng chàng tin rằng Ngài sẽ đáp lại lời nguyện cầu của
chàng bằng cách này hay cách khác. Vì thế, chàng chờ đợi…
Một hôm, Nicholas cỡi ngựa qua một xóm nghèo. Bọn trẻ
quần áo xác xơ, cả lũ ngừng chơi nhìn chằm chặp vào chàng thanh
niên đẹp trai cỡi trên lưng con ngựa quí. Lập tức, Nicholas đọc
được trong những đôi mắt và trên thân hình gầy gò của chúng sự
nghèo túng, đói khát và đáng thương. Đột nhiên chàng nhớ lại lời
Chúa Kitô: “Các con làm điều gì cho một kẻ bé mọn nhất trong anh
em Ta đây, chính là các con làm cho Ta”. “Những kẻ bé Mọn! Các trẻ
nhỏ!” Nicholas tự nghĩ, “ Chúa muốn tôi giúp đỡ các trẻ nhỏ”. Lập
tức chàng quay ngựa đi thẳng đến phố chợ. Tại đây, chàng mua sắm
những quần áo sặc sỡ, những đôi giầy đủ mầu đủ cỡ, rồi chàng xin
những người bán hàng chất các rổ, các thúng với mọi thứ thịt thà,
bánh kẹo, hạt giẻ và trái cây. Đồng thời chàng nhờ họ giữ thứ đó
cho tới khi chàng trở lại.
Đêm ấy, khi thành phố đã yên giấc, bọn trẻ đã ngủ say,
Nicholas bí mật đi từ nhà này sang nhà khác, qua những cửa sổ mở
trống, chàng đặt trên sàn nhà từng chiếc rổ, chiếc thúng đầy ắp
những bánh quà, thịt thà và quần áo. Chàng không quên bốc những
nắm kẹo và hạt giẻ bỏ vào những đôi giầy mới để gây ngạc nhiên cho
bọn trẻ.
Cứ thế, từ hôm này qua hôm khác, ban ngày Nicholas đi
tìm kiếm kẻ nghèo đói, đêm đến chàng rảo qua các nhà, bí mật bỏ
lại những món quà.
Chẳng mấy chốc, người trong thành đã xôn xao bàn tán,
họ hỏi nhau:
-Ai là người đã bí mật trao tặng chúng ta những món đồ
cần thiết, mà chúng ta không hay biết?
Khi nghe được những lời bàn tán của dân chúng, Nicholas
tạm ẩn mặt một thời gian. Chàng chỉ muốn một mình Chúa biết việc
chàng làm. Chàng tự nghĩ: “Nếu mình nhận lời cám ơn về việc mình
làm, thì ra như đã nhận công thưởng đời này rồi!”
Ngày kia, Nicholas nghe kể về một người bạn của cha
chàng, ông ta cũng là người thành Patara, nhưng làm ăn suy xụp. Do
sự suy xụp này ông ta không đủ tiền để sắm sửa cho ba cô con gái
đã đến tuổi thành hôn. Ông ta dự tính sẽ gửi cả ba đứa con vào làm
cho một tửu quán gần nhà, để chúng có thể kiếm tiền lập gia đình.
Khi nghe câu truyện, Nicholas tỏ ra rât bực tức, vì cũng như mọi
người trong thành, chàng biết rằng người chủ quán là một kẻ tội
lỗi. Những nàng con gái làm trong tửu quán đó không khỏi đi theo
đàng tội!
Ngay đêm đó, Nicholas bỏ đầy một túi nhỏ những đồng
tiền vàng, đi thẳng tới nhà người bạn của cha chàng. Qua cánh cửa
sổ đang mở, chàng thẩy túi vàng trên bàn, nơi người con gái lớn
đang ngồi. Khi nghe tiếng la sửng sốt của cô con gái vì túi vàng
bỗng dưng từ đâu bay tới, Nicholas lanh lẹ trốn mất! Không lâu sau
đó, chàng nghe kể cô ta đã lập gia đình trong hạnh phúc. Nhưng hai
cô em còn ở lại nhà vì chưa có tiền!
Rồi chẳng bao lâu, Nicholas lại lần mò đến, chàng thẩy
một túi vàng khác vào chỗ cô gái kế, và cũng nhờ túi vàng này,
người con gái lập được tổ ấm hạnh phúc.
Thời gian kén rể cho cô con gái út đã đến, đêm nào cũng
thế, người cha cẩn thận rình mò gần cửa sổ. Ông nói với cô con gái
cưng:
-Ba cần phải biết ai đã giúp đỡ chúng ta, để chúng ta
còn nói với người một lời cám ơn.
Đêm đó, Nicholas lại bí mật ném túi vàng thứ ba qua cửa
sổ. Nhưng bỗng nhiên tay chàng bị nắm lại. Chàng bị bắt quả
tang!
-À thì ra anh Nicholas, chính anh là người đã cho chúng
tôi những túi vàng! Chúng tôi cần phải biết vị ân nhân của chúng
tôi. Xin mời anh vào trong nhà, để chúng tôi còn tỏ lòng biết ơn
anh.
-Không! Không! Tôi không muốn việc tôi làm bị bại lộ.
Cách tốt nhất ông tỏ lòng biết ơn tôi là xin hứa với tôi, sẽ không
bao giờ nói cho ai biết việc tôi đã làm.
Sau đó, Nicholas chẳng những dâng hiến của cải và thời
giờ cho Chúa, chàng còn dâng mình để trở thành một linh mục. Rồi
một thời gian sau, ngài được chọn làm Giám Mục thành Myra, không
xa Patara là bao. Lòng nhân ái và qủang đại đối với người nghèo
của Ngài đồn ra khắp nơi.
Người ta kể rằng, một đêm bão tố khủng khiếp tại biển
Aegean, Nicholas cứu nguy một chiếc tầu đã hầu chìm đắm nhờ kêu
cầu sự trợ giúp của Thiên Chúa. Do câu truyện này, các thủy thủ ở
miền đó thường kêu tên Nicholas trước các chuyến hải hành. Họ chúc
nhau một cuộc hành trình tốt đẹp khi nói:
-Xin thánh Nicholas cầm lái!
Nhiều huyền thoại xoay quanh cuộc đời Đức Giám Mục
Nicholas, Đấng sau này đã được phong thánh. Cùng với thánh Anrê
Tông Đồ, Ngài là Quan Thầy nước Nga. Tại Đức, Thụy Sĩ và Hòa Lan
người ta tỏ lòng tôn kính thánh Nicholas bằng nhiều tục lệ tốt
đẹp. Dần dà, Ngài đd được coi như một vị thánh của trẻ nhỏ.
Trong đêm vọng lễ kính Ngài, ngày 6 tháng 12, trẻ em
thuộc nhiều quốc gia đặt giầy của chúng ra ngoài nhà để cho thánh
Nicholas bỏ đầy kẹo bánh và đồ chơi. Nếu chúng vẫn tỏ ra ngaon
ngỗn, chúng có quyền hy vọng như vậy.
Người Hòa Lan đã đem những tục lệ này vào Mỹ. Thánh
Nicholas hay “Saint Klaus” của người Hòa Lan từ đó được biết như
“ông già Noel” (Santa Claus). Rồi thay vì đặt giầy ra ngoài nhà
vào đêm vọng lễ thánh Nicholas, các trẻ em Mỹ treo những đôi vớ
của chúng vào đêm Sinh Nhật để được “ông già Noel” bỏ đầy kẹo bánh
và đò chơi.
Thánh Nicholas qua đời tại Myra vào thế kỷ thứ 4. nhiều
nhà thờ tại Á Châu và Âu Châu được xây dựng để kính nhớ Ngài. Thế
kỷ 17, khi quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công Myra, nước Y.Ù Người ta đã di
hài cốt Ngài về táng tại Pari, nước Ývà tại đó hài cốt Ngài vẫn
còn tồn tại đến ngày nay.
Tác giả
Raymond Thư, Lm, CMC
|