Thánh Lễ Kỷ Niệm 100 Năm
Thánh Đường Giáo Xứ Thụy Lôi, giáo Hạt
Hưng Yên, Giáo Phận Thái Bình
Chiều ngày 09/10/2010, vào lúc 18 giờ
30’, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục
giáo phận Thái Bình đã tới dâng thánh lễ tạ
ơn Thiên Chúa nhân dịp mừng kỷ niệm ngôi thánh
đường giáo xứ Thụy Lôi được 100 tuổi.
Mặc dù công việc bận mải
nhưng với tấm lòng của người mục tử,
Đức cha đã dành thời gian tới hiệp dâng thánh
lễ tạ ơn Thiên Chúa nhân dịp mừng kỷ niệm
ngôi thánh đường giáo xứ Thụy Lôi được
100 tuổi. Cùng đồng tế với Đức cha có
cha bề trên dòng Thừa Sai Đức Tin, quý cha, quý tu sỹ
nam nữ, quý khách xa gần cùng mọi thành phần dân Chúa
trong và ngoài giáo xứ Thuỵ Lôi.
Trước khi dâng thánh lễ tạ
ơn Thiên Chúa, cha chánh Giuse Nguyễn Thanh Ngư đã sơ
lược giáo xứ Thuỵ Lôi. Sau
đó, cha bề trên dòng Thừa Sai Đức
Tin đã đọc
Trong bài giảng Đức cha đã chúc
mừng giáo dân giáo xứ Thuỵ Lôi trong ngày trọng đại
này. Ngài cùng khuyên nhủ mọi người hãy tri ân và noi
gương các bậc tiền nhân đã can đảm sống
niềm tin và làm chứng cho Chúa dù có phải hy sinh mạng
sống để lưu truyền Đức Tin cho chúng ta
hôm nay.
Hôm nay, chúng ta vui mừng kỷ niệm
nhà thờ được 100 tuổi cũng là dịp để
mọi người cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã
thương ban muôn hồng ân cho giáo xứ và cho mỗi
người chúng ta, nhưng đồng thời cũng là
thời khắc mở ra những ngày tháng mới, lãnh nhận
sứ điệp mới trong suy nghĩ, trong hành động,
để từ đó qua cuộc sống hằng ngày của
chúng ta – những tín hữu Chúa Kitô, mà làm cho lương dân
nhận biết Chúa, gặp được Chúa và tin theo
Chúa.
Trước khi ban phép lành cuối lễ,
một vị đại diện giáo xứ đã lên tặng
hoa và cám ơn Đức cha, quý cha, quý tu sỹ nam nữ
cùng toàn thể cộng đoàn đã tới hiệp dâng
thánh lễ và cầu nguyện cho giáo xứ; xin tri ân các
đấng bậc và mọi người đã giúp đỡ
và quan tâm đến giáo xứ; xin tiếp tục cầu
nguyện cho giáo xứ.
LƯỢC SỬ GIÁO XỨ THỤY LÔI
Đất và người
Tân Giáo xứ Thụy Lôi, tên trước
đây thường gọi một cách thân thương là họ
Xuôi, nằm trên địa bàn xã Thụy Lôi, thuộc huyện
Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, cách thành phố Hưng Yên
hơn 10 km theo hướng đông. Đây là một vùng
đất trũng phì nhiêu nằm dọc bên bờ sông Luộc
thơ mộng, hàng năm được phù sa bồi đắp
nên đất đai màu mỡ, thích hợp trồng các loại
cây lương thực và hoa màu, đặc biệt là nhãn lồng
nổi tiếng. Không những thế, Thụy Lôi còn
được dòng sông Luộc cung cấp lượng
nước dồi dào cho nông nghiệp, và là nơi có nhiều
tàu thuyền qua lại nhộn nhịp suốt ngày đêm, ‘trên
bến dưới thuyền’ rất thuận
lợi trong việc vận chuyển, giao lưu
thương mại. Cũng giống như hầu hết
các vùng nông thôn Miền Bắc, cuộc sống con người
Thuỵ Lôi in đậm dấu ấn nếp sống
văn hoá làng xã. Các gia đình thường sống quần
tụ bên nhau rất gần gũi thân thương ‘tứ
đại đồng đường’. Mối
tương quan họ hàng thân thuộc trải rộng từ
làng này đến làng khác. Đặc biệt, trong giáo xứ,
ước chừng 90% bà con tín hữu có họ hàng với
nhau. Cũng chính nhờ nếp sống mang đậm tinh
thần gia đình, mà trải qua những thăng trầm
và thử thách của cuộc sống, Đức Tin của
người tín hữu vẫn luôn được hun
đúc. Tính đến năm 2009, toàn xã có khoảng 6.000 nhân
khẩu. Trong đó, số tín hữu Công giáo là 870 nhân khẩu,
chiếm 14,5%. Đây là một tỷ lệ cao so vơí tỷ
lệ chung của cả giáo phận Thái Bình (khoảng 3,48%).
Hành trình Đức Tin
a. Đón nhận Tin Mừng: Nói đến Thụy Lôi, không thể
không nói đến giáo xứ Tiên Chu thuộc xã Hồng Nam,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Đây là một
trong những xứ đạo kỳ cựu của giáo phận
Thái Bình; bởi lẽ Tiên Chu nằm ở Phố Hiến,
nơi các đấng thừa sai ngoại quốc thường
lui tới để rao giảng Tin Mừng vào hậu bán thế
kỷ 17 và được nhiều người đón nhận
Đức Tin. Năm 1730, Tiên Chu trở thành một xứ
đạo độc lập.
Những năm 1860, các thừa sai từ
Tiên Chu đã mang hạt giống Tin Mừng gieo vào vùng Thụy
Lôi và được nhiều người đón nhận.
Năm 1870, sau thời kỳ bách hại đạo của
vua Tự Đức, Hội Thánh tương đối
được yên ổn, nhiều gia đình Công giáo của
họ Vân Tiêu (Viên Tiêu) từ xứ Tiên Chu đến định
cư tại xã Thụy Lôi. Họ hiệp thông với các
tín hữu đã đón nhận đức tin từ các thừa
sai, xây dựng một ngôi nhà nguyện nhỏ lợp bằng
lá để thờ phượng Chúa, lấy tên là họ
Xuôi (còn gọi là họ Thụy Lôi) và trở thành một họ
lẻ của xứ Tiên Chu. Mặc dù là họ lẻ,
nhưng ngay từ những ngày đầu đón nhận
Tin Mừng, các tín hữu đã thể hiện sức sống
Tin Mừng một cách mãnh liệt. Bằng chứng là trong
thời kỳ bách đạo của vua Tự Đức
(1847-1883), họ Xuôi (còn gọi là họ Thụy Lôi) đã
có hai chứng nhân Đức Tin, chấp nhận đổ
máu đào để minh chứng tình yêu Chúa Kitô, đó là hiền
phúc tử đạo Gioan Liên và Phêrô Uyên cùng chịu xử
trảm ngày 01 tháng 6 năm 1862, tại Hưng Yên. Cũng
vào thời gian đó, họ Lệ Chi cũng có một nhành
lá tử đạo, là hiền phúc Đaminh Lãnh trước khi chịu xử chém
ngài đã lớn tiếng phó mình cho Chúa mà chịu trảm
quyết. Năm 1902, Giám mục Tông tòa giáo phận Trung Kỳ
ban sắc lệnh chia 6 họ lẻ thuộc xứ Tiên Chu
là Thụy Lôi, Lệ Chi, Điềm Xá, Mai Xá, An Cầu, Võng Phan lập
thành giáo xứ Võng Phan. Từ đó, Thụy Lôi trở thành
họ lẻ của giáo xứ Võng Phan và được các
vị chủ chăn chăm sóc trải qua các giai đoạn:
Từ 1902 - 1929: cha Chi từ 1929 - 1944: cha Vinhsơn
Nguyễn Hữu Thụy từ 1944 - : cha Giuse Nguyễn Ngọc Linh từ 1944 -
1945: cha Đaminh Đinh Đức Trụ (sau làm Giám mục
Giáo phận Thái Bình) từ 1948 - 1949: cha Hiralio
Aragon Đức (thừa sai
Tây Ban Nha) từ 1949 - 1954: cha Tôma Trần
Lê Vinh từ 1954 - 1969: cha Tôma Nguyễn Tình từ 1969 - 1973:
cha Tôma Trần Công Tính từ 1973 - 1994: cha
Vinhsơn Phạm Văn Tuyên từ 1994 -
2003: cha Vinhsơn Mai Thành Sơn từ 2004 -
2007: cha Đaminh Bùi Ngọc Hải từ 2007 -
2009: cha Giuse Trịnh Tiến Thành từ 2009 -
đến nay: cha Giuse Nguyễn Thanh Ngư.
b. Xây dựng thánh đường: Trước năm 1910, họ Xuôi đã
có một ngôi nhà thờ lợp lá, nằm tại ngã ba giữa
thôn Lệ Chi và thôn Thụy Lôi. Do số tín hữu ngày càng
tăng, năm 1910 nhà thờ cũ được tháo dỡ
để xây dựng lại ngôi nhà thờ mới kiên cố
và rộng lớn hơn trên một khu đất diện
tích chừng 8000 m2 (78m x 103m), cách nhà thờ cũ khoảng
300 m về hướng đông nam, nhận thánh quan thầy
là Phêrô Tông đồ. Theo lời kể của một số
cụ am hiểu về nguồn gốc nhà thờ, thì nhà thờ
này được xây dựng do hai vị tín hữu thông
gia, có tinh thần yêu mến Chúa và lòng nhiệt thành tông
đồ: một người thuộc họ Thụy Lôi
là cụ Hậu Sen và một người thuộc họ Lệ
Chi là cụ Phó Phủ. Toàn bộ giàn khung chính của nhà thờ
hiện nay được hai cụ mua lại của nhà thờ
Phú Lạc (thuộc giáo xứ Phú Lạc), rồi thả bè
ngược dòng sông Hồng khoảng 10 km đến cửa
sông Luộc rồi xuôi theo dòng sông Luộc đến Thụy
Lôi; sau đó được thiết kế lại thành ngôi
nhà thờ họ Xuôi. Còn tháp chuông nhà thờ thì đến
năm 1977 mới được xây dựng. Nhà thờ
được xây dựng theo lối kiến trúc
Phương Tây, dạng hình chữ nhật dài 37 m, rộng
13,5 m; chiều cao tháp chuông 29,5 m. Nếu ai có dịp đến
thăm giáo xứ Thụy Lôi, bước vào bên trong nhà thờ,
điều gây ấn tượng đầu tiên là gian cung
thánh, bởi sự trang trí đầy tính thiêng liêng diễn
tả những hình ảnh thật sống động của
vương quốc thiên đàng. Trên cùng là Đức Chúa
Cha đang dang tay chúc lành cho mọi loài thụ tạo, bao
quanh có các thiên thần đang hoan ca thờ lạy, bên
dưới có Tòa Đức Mẹ Mân Côi (Tòa Rôsa) được
bài trí theo truyền thống các cha dòng Đaminh thừa sai
Tây Ban Nha: Tay trái Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Con
để giới thiệu cho nhân loại, tay phải Mẹ
cầm tràng chuỗi Mân Côi trao cho cha thánh Đaminh và thánh nữ
Catarina Siêna đang cung kính quỳ dưới chân Mẹ và
hân hoan đón nhận. Chiếc cột hai bên Tòa Đức
Mẹ được chạm khắc hai thánh tử đạo
thật sinh động: một tay cầm Thánh Giá, tay còn lại
cầm nhành lá thiên tuế, mắt ngước lên trời như
đang khát mong sớm được về nhà Cha. Bên
dưới Tòa Mức Mẹ là Nhà Tạm được chạm
khắc công phu và được sơn son thiếp vàng, trên
đỉnh Nhà Tạm là tượng Chúa Giêsu chịu nạn,
v.v. Sự bài trí đầy tính thiêng liêng của cung thánh khiến
cho những ai bước vào cũng phải hướng
lòng lên Chúa để cầu nguyện và gẫm suy về
nước thiên đàng.
c. Thời kỳ khủng hoảng: Biến cố 1954 có thể nói là thời
kỳ khủng hoảng của người Công giáo tại
miền Bắc, Việt Nam. Hiệp định Genève chia
đôi đất nước thành hai miền Nam -
Bắc từ vĩ tuyến 17, có hơn 90% giáo dân rời bỏ
quê hương, xứ đạo để di cư vào Miền
Nam. Giáo họ Thụy Lôi cũng nằm trong bối cảnh
chia ly đó, chỉ còn một số rất ít ở lại
trong tâm trạng âu lo và sợ hãi. Giáo dân không có linh mục
như đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt,
đời sống Đức Tin chỉ còn được
duy trì nhờ kinh nguyện trong gia đình; nhà thờ gần
như bị bỏ hoang vì không có người ở để
trông nom coi sóc. Khi hoàn cảnh ly tán đang làm cho những
người ở lại không ít hoang mang, thì vào năm 1962,
bà con tín hữu lại phải chứng kiến một thực
trạng đáng buồn: một con đường liên thôn
đã cắt chéo sát ngôi thánh đường, khuôn viên nhà
Chúa bị biến dạng và diện tích dần dần bị
thu hẹp lại chỉ còn 1/4 so với diện tích ban
đầu (2000m2 trên 8000m2). Thật xót xa hơn, vào những
năm 1964 - 1965, nhà nước đã dùng bốn gian
cuối nhà thờ để đựng thóc. Giáo dân sao cầm
được nước mắt, sao không đau đớn
khi mà nhà thờ là nơi thiêng liêng để thờ phượng
Thiên Chúa, là nơi để lãnh nhận thần
lương nuôi sống linh hồn là bàn tiệc Lời Chúa
và bàn tiệc Thánh Thể, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của
cộng đoàn tín hữu, lại trở thành một nhà kho
để đựng lúa! Mặc dù sống trong những
hoàn cảnh vô cùng khó khăn do hoàn cảnh lịch sử,
nhưng giáo dân vẫn kiên tâm chịu đựng và một
lòng một dạ trung thành với Chúa, với Giáo Hội.
Ngày đêm họ âm thầm cầu nguyện cho dân tộc
được sống trong hòa bình, cho con cái Giáo Hội
được thờ phượng Chúa mà không sợ hãi
điều gì, v.v. Từ một số ít tín hữu còn lại
sau năm 1954, như hạt giống âm thầm chờ ngày
được sinh sôi nảy nở và phát triển.
3. Hiện tại và hướng đến
tương lai
Không ai ngờ rằng, họ lẻ Thụy
Lôi đã trải qua những giai đoạn vô cùng khó
khăn, họa hiếm mới có linh mục về dâng thánh
lễ, thì hôm nay lại được Thiên Chúa ưu ái cách
đặc biệt, như là một sự bù đắp những
thiệt thòi trong quá khứ và là sự khích lệ cho sự
tín trung của các tín hữu. Thật vậy, ngày 02/12/2006, một
trang sử mới đến với giáo họ Thụy Lôi:
Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, nguyên Giám mục
giáo phận Thái Bình đã nâng giáo họ Thụy Lôi lên thành
giáo xứ Thụy Lôi, gồm họ Thụy Lôi và họ Lệ
Chi. Đức cha đã nhìn thấy nhu cầu tâm linh và tiềm
năng phát triển của cộng đoàn tín hữu tại
đây. Và để anh chị em giáo dân được
thường xuyên có vị chủ chăn hướng dẫn
và ban các bí tích, ngài đã trao giáo xứ Thuỵ Lôi cho tỉnh
dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam coi sóc. Mặc dù
được nâng lên thành giáo xứ tháng 12/2006, nhưng
đến ngày 23/5/2009, giáo xứ Thụy Lôi mới có linh mục
đặc trách là cha Giuse Nguyễn Thanh Ngư, dòng Thừa Sai
Đức Tin; đến tháng 3/2010, cha Giuse trở thành linh
mục chánh xứ tiên khởi của giáo xứ Thụy
Lôi, theo văn thư bổ nhiệm của Đức giám
mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục giáo phận
Thái Bình. Hiện tại, giáo xứ có hai giáo họ. Họ
Phêrô có 450 nhân khẩu, họ Phaolô 420 nhân khẩu. Khi
được trao nhiệm vụ coi sóc giáo xứ, cha Giuse
đã quan tâm trước hết đến đời sống
Đức Tin của tín hữu: cử hành thánh lễ mỗi
ngày để giáo dân tham dự; cử hành các bí tích, thành lập
các ca đoàn (giới trẻ, thiếu nhi), mở dạy
các lớp giáo lý, lập ban lễ sinh, thành lập lớp
ơn gọi (25 em), dạy nhạc lý căn bản cho ca
đoàn, lập hội con Đức Mẹ (các bà mẹ
Công Giáo), v.v. Cha cũng đặc biệt quan tâm đến
20% số tín hữu đã bỏ nhà thờ từ rất
lâu (9 đến 35 năm) và đã giúp họ trở lại
nhà thờ được 90%. Ngoài ra, cha cũng chú tâm đến
việc đem ánh sáng Tin Mừng cho người ngoại
giáo và đã giúp đưa 4 gia đình trở về với
Chúa và trở thành con cái của Giáo Hội với tổng cộng
18 người vào đêm Phục Sinh 2009. Cha còn khuyến
khích các bạn trẻ tham gia công tác truyền giáo: gặp gỡ,
làm quen, khéo léo và tế nhị nói về Chúa và về Giáo Hội
cho họ, mời họ đến nhà thờ tham quan nhất
là các dịp lễ lớn.Ngoài ra, cha Giuse đã và đang
giúp cho anh chị em giáo dân hoà nhập vào sinh hoạt chung của
giáo hạt và giáo phận: tạo điều kiện cho các
bạn trẻ tham dự lớp đào tạo giáo lý viên,
sinh hoạt giới trẻ; cử hành Năm Thánh về gia
đình thay mặt giáo phận tại giáo xứ (hơn 1000
người tham dự), tham dự Năm Thánh các bà mẹ
Công Giáo (15/8/2010), tham dự ngày hội các lễ sinh tại
giáo phận, v.v. Những nỗ lực của cha Giuse cùng với
sự cộng tác của anh chị em tín hữu mà đặc
biệt là hội đồng mục vụ của giáo xứ
không những giúp cho đời sống đạo
được khởi sắc hơn, mà còn nâng cao ý thức
về bổn phận làm cha làm mẹ, làm con làm cháu trong gia
đình và ngoài xã hội; mối tương quan giữa
người Công giáo với anh chị em lương dân ngày
càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, trong khi tệ
nạn ma tuý lan tràn trong xã hội đến mức báo
động, thì trong cả giáo xứ Thụy lôi không có bất
kỳ một trường hợp nghiện hút nào xảy
ra. Về mặt học tập, năm 2009, giáo xứ có 45
học sinh tiên tiến, một em học sinh giỏi cấp
huyện, một em thi đậu đại học cùng lúc
ba trường với số điểm rất cao. Năm
2010 có 67 học sinh giỏi, trong đó có một em học
sinh giỏi cấp huyện và một em đạt học
sinh giỏi cấp tỉnh. Nhận thấy nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo ngày càng tăng, bên cạnh nâng cao đời
sống tâm linh, cần phải có cơ sở vật chất
là những phương tiện để phục vụ
tín hữu và công việc truyền giáo tốt hơn. Cha
Giuse đã quyên góp và sửa chữa lại hơn 400 m2 nhà
thờ, làm đường thoát nước hơn 200 mét, sửa
và làm mới nhà xứ thêm 50 m2, mua hơn 1500 m2 đất
nhằm mở rộng khuôn viên nhà thờ và xây dựng các
công trình để phục vụ tín hữu. Tuy cha Giuse
đã nỗ lực cố gắng rất nhiều,
nhưng hiện tại, cơ sở vật chất của
giáo xứ vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa có
nhà giáo lý, chưa có nhà sinh hoạt mục vụ, khuôn viên
nhà thờ quá chật hẹp: từ hơn 8000 m2 lúc ban
đầu, nay chỉ còn khoảng 2000 m2 . Nhà thờ đã
xuống cấp trầm trọng, chỉ cần một
cơn mưa vừa là nền nhà thờ đã lai láng nước.
Nhà thờ cũng trở nên nhỏ bé trước sự
gia tăng của tín hữu, đặc biệt
là những ngày lễ trọng và Chúa Nhật, giáo dân phải
đứng ngoài nhà thờ để tham dự thánh lễ.
Đó không chỉ là nỗi ưu tư của cha xứ, mà
là nỗi ưu tư của tất cả những ai
đang thao thức lo lắng cho tương lai của cộng
đồng tín hữu cũng như công cuộc loan báo Tin Mừng.
Trải qua 100 năm lịch sử, với bao biến cố
thăng trầm, giáo xứ Thụy Lôi vẫn luôn được
Thiên Chúa ân cần chăm sóc và dẫn dắt. Nhìn lại
100 năm cũng có nghĩa là nhận ra bàn tay quan phòng đầy
yêu thương của Thiên Chúa đối với họ
Xuôi và nay là giáo xứ Thụy Lôi nhỏ bé nhưng đầy
tình Chúa tình người. Nhìn lại 100 năm để mỗi
người trong giáo xứ biết cảm tạ hồng ân
Thiên Chúa và tri ân những người đã góp công góp sức
xây dựng ngôi thánh đường tuy đã rêu phong
nhưng vẫn hiên ngang trước bao sóng gió của thời
gian. Máu các vị tử đạo là hạt giống sinh
ra các Kitô hữu ! (Tertullianus). Nhìn lại 100 năm để
mọi người cảm ơn các vị hiền phúc tử
đạo của giáo xứ đã âm thầm cầu thay
nguyện giúp, nhờ đó mà hạt giống Đức
Tin ngày càng sinh sôi nảy nở như hôm nay. Và để
đền đáp hồng ân Chúa ban và tri ân tất cả những
ai đã và đang giúp đỡ giáo xứ bằng cách này
hay cách khác, có lẽ không gì thiết thực hơn bằng
sự nỗ lực sống chứng nhân như người
con cái của Chúa và của Hội Thánh ngay trong cuộc sống
hàng ngày của mỗi Kitô hữu.
Hồng Ân