Ghi lại : hành trình lên với bà con dân tộc Hmông
của anh em linh mục khóa VII giáo phận Thanh Hóa
(Xin
xem hình ảnh phía cuối bài)
Rời Tòa
giám mục Thanh Hóa vào lúc 3g00 sáng, anh em chúng tôi – những linh
mục khóa VII giáo phận Thanh Hóa vừa chịu chức và
có anh em đã chịu chức được một năm
– và để ghi dấu ấn trong sứ vụ của
mình, chúng tôi, thay vì tổ chức đi chơi, đã quyết
định lên thăm bà con dân tộc thiểu số Hmong sống
trong các vùng núi cao thuộc huyện Mường Lát, Thanh hóa.
Mường
Lát là một huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Thanh Hóa. Phía Bắc giáp
huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La và Lào. Phía Tây và Nam giáp Lào. Phía Đông
và rìa Đông nam giáp huyện Quan Hóa cùng
tỉnh. Với đa phần là dân tộc
Hmong và Thái, đời sống chủ yếu là trồng rừng
và đi làm nương rẫy nên kinh tế thuộc vào diện
nghèo của Thanh Hóa. Đường giao thông cách trở
vì núi non trùng điệp nhưng tất cả vẫn không
ngăn nổi bước chân và lòng nhiệt huyết đến
với bà con dân tộc Hmong – những Kitô hữu kiên trung sống
đức tin trong những cám dỗ và thử thách nhưng
vẫn một mực tin vào Chúa dù đã bị bỏ quên
hàng nhiều chục năm vì không có linh mục đến
coi sóc và ban bí tích.
Sau khi ngồi
xe gần 10 giờ đồng hồ, chúng
tôi đến chân núi và bắt đầu chuyển qua xe máy
để đi vào bản. Dẫn đầu
nhóm là Linh mục Phaolo Đinh Tiến Thảo và thầy
Công Hai – những người đã dấn thân cho công tác mục
vụ với người thiểu số hơn một
năm qua. Trong suốt cả chuyến
đi, chúng tôi được cha Thảo và thầy Hai khuyến
khích rất nhiều và bày cho những phong tục tập
quán của người bản địa cũng như một
số câu chào hỏi bằng tiếng Hmong. Nhóm có 12
người, và mỗi người được thanh niên
bản địa đèo bằng xe máy.
“Hãy đến
mà xem”, đó là một cảm nghiệm mà có thực tế
ngồi xe máy hay leo núi mới diễn tả
được những hiểm nguy mà người đi
đối diện. Lối đi chỉ là một con
đường nhỏ, khúc khủy, trơn trượt, dốc
đá lởm chởm, một bên là vực sâu một bên là
vách núi dựng đứng. Quá trình đi vào bản gặp
không ít những khó khăn và gian nan. Có những
đoạn vượt đèo và cua tay
áo, nếu xe quá đà một chút thì sẽ xuống vực
sâu, hoặc có những đoạn đổ dốc mà nếu
xe mất phanh thì đi luôn xuống chân núi. Cứ thế,
đoàn xe lầm lũi tiến vào bản
trong sự lo ngại và thoàng chút sợ sệt của một
số người trong đoàn.
Qua năm
ngọn núi, cuối cùng chúng tôi cũng đến được
bản Papua – một bản có hơn năm trăm nhân khẩu
theo Công giáo, qua tìm hiểu chúng tôi được biết những
người Hmong ở đây được các nhà thừa
sai truyền giáo và gây dựng thành các cộng đoàn,
nhưng do thời thế, nhiều bản trong số họ
đã bỏ núi rừng di cư qua các vùng khác hoặc bị
xóa hết dấu tích công giáo do một khoảng thời
gian dài không có linh mục coi sóc. Giáo phận Thanh hóa trước
đây có 6 giáo xứ tại các vùng núi này, nhưng cũng
đã bị “xóa sổ” theo những
thăng trầm của lịch sử.
Vào đến
bản, chúng tôi được bà con đón chào cách nồng
nhiệt bằng những tràng pháo tay và
cái bắt tay nắm chặt, bằng ánh mắt ngơ ngác
của các em nhỏ, bằng những câu chào lơ lớ tiếng
kinh…
Sau khi nghỉ
ngơi và phát một số bánh kẹo cho các em nhỏ, chúng
tôi bắt đầu dâng lễ tạ ơn cùng bà con ở
đây – một thánh lễ được dâng giữa trời
đất núi rừng Tây Bắc; một thánh lễ
được làm bên vách nhà, bàn thờ được làm bằng
gốc cây rừng, khăn bàn thờ là một tấm vải
đã sờn cũ; một thánh lễ lộ thiên vì ở
đây họ quá nghèo không có điều kiện để
làm một mái nhà hội chung; một thánh lễ tuy là
“người một nhà” nhưng phải có người
phiên dịch từ tiếng Kinh qua tiếng Hmong; một
thánh lễ mà những người giáo dân ngồi chung với
linh mục và các em nhỏ trần truồng không quần áo
nhìn các cha bằng ánh mắt ngơ ngác vì đây là lần
đầu tiên trong đời họ chúng kiến một
thánh lễ có 9 cha cùng đồng tế; một thánh lễ
mà cả linh mục lần giáo dân đều rưng
rưng lệ theo những cảm nhận riêng của mỗi
người, giáo dân rưng lệ mừng vì họ nhận
được sự quan tâm săn sóc của quý cha, nhận
được tình mục tử mà bấy lâu họ hằng
khao khát, các cha thì rưng lệ vì cảm thương những
hoàn cảnh vất vả và điều kiện sống quá
khó khăn, quá nghèo, nhưng họ vẫn một mực tin
vào Chúa, trung thành với đức tin Công giáo dù nhiều bản
làng trong số họ đã theo các anh em Tin Lành hoặc bỏ
đạo.
Sau thánh lễ chúng tôi chụp hình lưu niệm
cùng mọi người ở đây và tập trung phát quà
cho bà con dân bản, một số cha đi thăm các gia
đình để hiểu thêm hoàn cảnh sống và những
tập tục sinh hoạt của người Hmong.
Tối
đến chúng tôi được ưu tiên ngủ trong một
căn nhà “sang trọng” nhất bản với những manh
chiếu trải trên nền nhà. Trong đêm, mọi người
ai cũng trăn trọc khó ngủ dù
đi một quản đường khá dài, một phần
vì ở đây nhiều muỗi, một phần xúc động
về hoàn cảnh sống thiều thốn của người
dân nơi đây.
Sáng hôm sau, mới tinh mơ mọi người
đã tập trung lại trước mảnh sân hôm qua
để đọc kinh và chờ các cha ra dâng lễ. Anh em
chúng tôi lại có dịp cùng bà con dâng thánh lễ thứ hai
giữa núi rừng với nhiều kỷ niệm khó phai
trong bước đường phục vụ. Sau thánh lễ chúng tôi đi thăm một số
gia đình và vội vàng xuống núi để trở về
giáo xứ của mình trước khi trời tối, vì
đường đi thường xuyên bị sạt lở
và có thể nằm lại rừng bất cứ lúc nào nếu
gặp trời mưa.
Trên
đường trở về mỗi người mang theo một
“hành trang” là những dự tính, những ước nguyện,
những suy tư và cả những thao thức
: Làm sao để thường xuyên đến
được với họ, làm sao để họ bớt
khổ, làm sao để có điều kiện làm cho họ
một căn nhà nguyện nhỏ bằng tranh tre lứa
lá, làm sao giúp các em nhỏ được đến trường…
làm sao???
Tất cả
đều phó thác cho Chúa, tất cả đều phó thác
vào sự sẻ chia của những người có điều
kiện, tất cả phó thác vào lòng hảo tâm…
“Cũng một
kiếp người…”
Thanh hóa ngày
14.9.2010
Lm Giuse Nghiêm
Văn Sơn