ĐỂ NGƯỜI RA ĐI
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự
ra đi của Người. Không bị
bất ngờ, các Tông đồ
chìm sâu vào sự đau
buồn trước
viễn cảnh mất Người.
Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại. Bạn không dễ
dàng chấp nhận Người mà bạn yêu
thương ra đi. Ngay cả một đồ vật hoặc một con thú cưng của
bạn cũng thế.
Một ngày nọ, một cậu trai trẻ thấy một con chim nhỏ run lẩy bẩy nằm dài trên
mặt đất, bên dưới một cái tổ. Cảm thấy
xót xa trong
lòng vì chim,
cậu đem chim và nhà
và đặt gần lò sưởi,
ở đó chim từ từ hồi sinh. Tuy nhiên, thay vì
trả chim về tổ, cậu làm một
cái lồng cho chim. Trong lồng, cậu cho chim nhiều
thức ăn, nước uống và hơi ấm.
Chim nhỏ
mau lớn và bắt đầu
bay quanh lồng. Kế đó, nó bắt
đầu hót. Cậu trai run lên vì sung sướng.
Nhưng một ngày kia
nó bắt đầu đập cánh vào cạnh
lồng. Cậu liền hỏi
ông cậu điều đó có nghĩa gì.
“Nó không hạnh phúc”, ông cậu
đáp.
“Cháu không
hiểu”, cậu trai hỏi: “Nó không có
mọi thứ nó cần trong
lồng hay sao?”.
“Mọi thứ
ngoại trừ một điều mà chim nào
cũng mong ước?”.
“Điều
đó là điều gì?”
“Tự do” ông cậu
đáp.
“Ông muốn nói là cháu
phải cho nó tự do, nó muốn rời bỏ cháu”.
“Nó chỉ muốn
được tự do, vì thế nó mới có thể giống
như những con chim khác”.
“Nhưng làm sao cháu có
thể để nó đi?” Cậu khẩn khoản. “Nó
không biết gì về những nguy hiểm đang chờ nó
trong thế gian. Nó có thể bị giết chết hoặc
chết đói”.
“Đó là một sự
liều lĩnh mà cháu phải có”.
“Nhưng cháu yêu nó nhiều
đến nỗi cháu không thể để nó đi”.
“Nếu cháu thật sự
yêu nó, cháu phải để nó đi”.
Cậu bé
trở nên thinh lặng. Nó nhìn con chim và con chim vẫn tiếp
tục vỗ cánh vào lồng. Và với mỗi cái đập
cánh, nó dường như muốn nói: “Trả tự do cho
tôi! Trả tự do cho tôi!”. Không thể chịu nổi nữa,
cậu quyết định để chim đi.
Khi nó bay
ra ngoài cửa số, nó mang theo nó một mảnh hồn của
cậu. Cậu nhìn theo qua cửa sốt mở rộng một
lúc lâu. Rồi thình lình, cậu nghe tiếng chim hót ở một
cây gần đó. Tiếng hót này dường như vui
tươi và ngọt ngào hơn trước đây. Và
đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng, cậu cảm
thấy tự do: hạnh phúc và bình an.
Các tông
đồ không muốn để Đức Giêsu ra đi. Nhưng
khi làm thế, họ không nghĩ đến Người mà
nghĩ đến họ. Người đã nói với họ
như thế. Người nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy
thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng
Chúa Cha bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14,28).
Đối với Đức Giêsu, trở về với
Chúa Cha là mục đích của đời sống Người.
Cố giữ Người ở lại là tỏ ra không yêu
mến Người.
Tình yêu chiếm
hữu rất thường gặp. Một số cha mẹ
có tinh thần chiếm hữu rất mạnh trong tình yêu
đối với con cái họ. Đã ban cho con cái họ
đời sống, họ từ khước để cho
chúng sống đời sống ấy theo cách của chúng. Sự
việc tương tự cũng xảy ra trong một số
cuộc hôn nhân. Người ta không sẵn lòng để cho
người phối ngẫu có đời sống riêng của
họ.
Tình yêu chiếm
hữu gây ra nhiều đau khổ và thiệt hại. Mặt
khác tình yêu không chiếm hữu làm nên điều kỳ diệu
cho cả đôi bên.
Sự
trưởng thành, tiến bộ, thay đổi đòi hỏi
một sự để cho đi, một sự buông bỏ
điều gì đó mà chúng ta đang có và coi là thân thiết.
Nhưng sự buông bỏ ấy là để đạt
được một điều mới mẻ và tốt
đẹp hơn.
Khi rời
xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng
Người không bỏ rơi họ. Người nói với
họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy,
nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ
không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi,
Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh
em” (Ga 16,7). Và Người làm đúng như lời Người
đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra
đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không
làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi
mở lòng mình để đón nhận một điều
mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ
không đem lại cho chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một số
người thường hay tức giận trong lòng và kết
quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự
thanh thản trong linh hồn. Nhưng có những người
khác có được sự bình an nội tâm và họ làm cho
đời sống của họ khác hẳn.
Hai người
láng giềng, James và John cày đất trên hai cánh đồng
sát liền nhau. Mặt trời chói chang trên họ và trên mặt
đất cứng, nhiều đá sỏi. James có tính khí hắc
ám. Ông quất roi da vào lưng con ngựa. Tuy nhiên, sự
đánh đập ấy càng làm cho con ngựa thêm
ương ngạnh và không chịu hợp tác với chủ
của nó. James tin chắc rằng lúa mì của người
láng giềng sẽ mọc cao hơn của ông. Và cứ mỗi
lần ông nhìn qua người láng giềng, ông có cảm
tưởng rằng ông này đang cười nhạo ông.
Trái lại,
John có tính khí trầm tĩnh. Ông im lặng làm việc và làm
tốt, mặc dù cực nhọc và đau đớn. Thỉnh
thoảng, ông dừng lại cho ngựa được nghỉ
ngơi. Ông nhìn qua người láng giềng và thầy rằng
ông này ở tình trạng rất dao động, ông muốn
giúp đỡ người láng giềng, nhưng ông biết
rằng khi ông tất bật như thế thì tốt
hơn nên để ông ta làm một mình.
Sự
khác nhau giữa hai người láng giềng không do những
điều kiện bên ngoài của đời sống họ
mà do tình trạng bên trong của tâm trí họ. Chúng ta nhìn thế
giới và người khác, không được như bản
chất của họ nhưng theo bản chất của
chúng ta: suy bụng ta ra bụng người. John vui sống
với sự bình an và thanh thản nội tâm. Còn James sống
trong tình trạng rối loạn nội tâm. Không có trở
ngại nào lớn hơn trong mối quan hệ tốt
đẹp với người khác bằng việc mình khó
chịu với chính mình.
Đức
Giêsu đến để mang lại cho chúng ta sự sống
và giải phóng chúng ta khỏi chính mình. Người trấn
an những nỗi sợ hãi của chúng ta, và chữa lành những
lo âu cùng thù hận của chúng ta, nhờ thế Người
làm chúng ta có thể nhìn thế giới với một tấm
lòng bình thản và một tâm hồn rộng mở.