Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Thứ Hai, Ngày 3 tháng 5-2010
|
Tình thương
Tất cả
chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với
các môn đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần Thánh,
quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các
môn đệ nhiều điều quí giá. Những lời
này được coi là những lời trăn trối
đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất
chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng
của Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn
đệ: Ngài yêu thương họ lắm, Ngài yêu
thương họ vô cùng, và Ngài bảo họ: “Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Tại sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là
điều răn mới? Mới ở chỗ nào và mới
như thế nào?
Tình yêu thương
thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi
đây là điều răn mới? Đúng thế, khi bắt
đầu có con người là có tình yêu thương, và
cũng từ đó bắt đầu có lời dạy: hãy
yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu ước cũng dạy
yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới hạn và
chưa loại bỏ được hết những động
lực vị kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất
Cựu ước. Ngài đưa ra những đòi hỏi
mới về tình yêu thương, và đưa tình yêu
thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài
người dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là
điều răn mới, trước hết, vì là điều
răn của giao ước mới, giao ước
được ký kết bằng máu của Ngài để
chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên
Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người. Và
Chúa còn đưa ra một lý do mới nữa, đó là tiêu
chuẩn hay kiểu mẫu yêu thương. Cựu ước
dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính
mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm
tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người
khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa
loại bỏ được hết những động
lực vị kỷ. Còn Chúa Giêsu dạy: phải yêu
thương nhau như chình Ngài đã yêu thương chúng
ta.
Cách Ngài yêu
thương vượt hẳn tiêu chuẩn của Cựu
ước, Ngài yêu thương chúng ta hơn chính Ngài. Như
vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu
thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối
với chúng ta, và tình yêu thương của Ngài là động
lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu
thương như Chúa Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa
đã hiến mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải
hiến mạng sống mình vì anh em. Nếu Chúa vốn là
Thiên Chúa nhưng đã không dành cho mình chức trọng quyền
cao mà đã hiến thân làm người để phục vụ
loài người, thì họ cũng phải biết quên mình
phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và là Chúa mà còn cúi xuống
rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt
các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu
Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là Chúa sau Phục
sinh phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ.
Họ phải sống như Ngài đã sống, phải yêu
thương như Ngài đã yêu thương. Ngài là qui luật
hành động của người môn đệ. Vì vậy,
“yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là yêu vì đã
được Chúa yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu chính là hiện
thân tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người.
Trọn cuộc đời Ngài, từ khi làm người
cho đến khi chết trên thập giá, là yêu thương.
Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người
môn đệ sẽ nối bước theo Thầy trên chính
con đường Thầy đã đi và vạch ra cho họ
thấy. Khi Chúa Giêsu còn sống trên trần thế thì không cần
có dấu chỉ mới nhận ra được ai là môn
đệ của Ngài. Chỉ cần thấy họ nghe và
đi theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện
diện hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào
mà những người không tin có thể nhận ra họ
là người môn đệ của Chúa? Theo thánh Gioan, chỉ
có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là lối sống
được xây dựng trên tình yêu huynh đệ, một
tình yêu thực sự bằng việc làm chứ không phải
nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng
đoàn Kitô hữu nếu muốn được nhận
ra là một cộng đoàn của Chúa, thì phải chứng
minh bằng đời sống thấm nhuần tình yêu
thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể
thay thế dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề
luật hay những biểu thức đức tin. Nhìn vào
dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn
là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ
khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy: họ coi mọi
sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất
trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện
và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông
Tetulianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu
thời sơ khai như sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các
Kitô hữu, và nói về họ rằng: “Hãy xem họ yêu
thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng
cho nhau chừng nào”. Những người ở ngoài gọi
họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh
em”. Đó là cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở
Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha Gaspar
d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu
đầu tiên ở Thăng Long, Việt Nam chúng ta sau
năm năm truyền giáo đầu tiên như sau: “Giáo hữu
ở đây có chừng hơn một ngàn. Họ yêu
thương nhau đến nỗi những người ngoại
ở chung quanh, vì không biết gọi tên đạo mới
là gì, nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi
họ là “Những người theo đạo yêu nhau”. Là con
cháu của thế hệ Kitô hữu theo đạo yêu nhau ấy,
chúng ta hãy tự hỏi: những người chung quanh hôm
nay nhìn vào cách sống của chúng ta họ có nhận ra chúng
ta là những người theo “đạo yêu nhau” không? Thiết
tưởng không có gì phản chứng hơn trước mặt
mọi người, khi các Kitô hữu bất hoà, chia rẽ
nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất có thể
người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng,
siêng năng đi lễ và cầu nguyện, nhưng lại
không có sự hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất
trí với nhau. Điều đó đã và đang xảy ra
nơi mỗi người chúng ta, gia đình chúng ta và cộng
đoàn chúng ta chăng? Thiên Chúa là tình yêu, đạo Thiên
Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm nay cũng phải tiếp
tục làm chứng cho mọi người thấy đạo
Thiên Chúa là đạo yêu nhau. Trong những năm gần
đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường
đề cập đến một nền văn minh tình
thương. Thực vậy, con người chỉ
được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi
sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu
thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người
như mình, bất chấp những khác biệt về chủng
tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng
một nền văn minh dựa trên tình thương đó
là bổn phận cấp bách của người kitô hữu
hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói
với chúng ta: “Thầy ban cho các con một điều
răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|