PHẦN V: NHỮNG NHÂN ĐỨC MÀ CHA GIOAN THƯỜNG LUYỆN TẬP
Sự Khiêm Nhường và Khó Nghèo
của Cha Gioan
ó ba nhân đức làm cha Gioan nổi
tiếng khắp thiên hạ và nên thánh thiện trước
mặt Thiên Chúa là: khiêm nhường, khó nghèo và hãm mình,
bằng lòng chịu cực khổ. Những đoạn
trước đây đã có nói đến các điều
này, ở đây xin bổ túc thêm một ít điều
nữa.
1. Có nhiều người nghĩ
rằng: khi cha Gioan thấy mọi đấng bậc
từ khắp nơi kéo đến cùng mình, làm sao cha tránh
khỏi cám dỗ về sự kiêu ngạo được.
Vì giữ được lòng khiêm nhường khi mọi
người khen ngợi, suy phục là điều rất
khó. Có một linh mục giúp xứ Ars nói đến
điều ấy trước mặt cha Gioan thì cha hiểu
ngay linh mục đó có ý hỏi cha có bị cám dỗ
về sự kiêu ngạo cậy mình hay không. Cha trả
lời:
- Tôi thấy ai tôn kính mình, chẳng
những tôi không vui mà còn sợ hãi buồn bực. Tôi không
bị cám dỗ về sự kiêu ngạo bao giờ,
chỉ bị cám dỗ về sự sợ hãi và ngã lòng
trông cậy.
Bởi vì cha luôn để lòng,
để trí nhớ đến tội lỗi mình, luôn coi
mình là người hèn hạ, không đáng làm việc chủ
chiên, thường khinh dể và ghét mình nên dù ai kính trọng
ngài cũng dửng dưng. Cha luôn coi mình là người hèn,
người chót hết trong mọi người, luôn
muốn hãm mình phạt xác. Thiên hạ càng cần danh
tiếng muốn người ta khen ngợi bao nhiêu thì cha
càng ước ao cho mọi người khinh dể, coi mình
là hèn hạ bấy nhiêu. Khi có ai vô lễ bất kính với
cha, chẳng những cha không chấp, không buồn mà
lại lấy làm mừng.
Một lần nọ cha nói
chuyện với vị linh mục giúp xứ Ars:
- Hôm nay tôi được
hai lá thư, một là khen tôi đạo đức, là
đấng thánh, còn lá thư kia mắng nhiếc tôi là
người giả hình man trá, mượn màu nhân
đức mà lừa dối thiên hạ. Tôi coi hai lá thư
ấy như không, vì lời khen chẳng làm cho tôi nên
tốt và lời khinh chê không làm cho tôi ra xấu.
Ngày khác, cha nói:
- Thiên Chúa dùng tôi để
lo cho người có tội được ăn năn
trở lại vì tôi dốt nát hèn hạ hơn tất
cả mọi người. Nếu như trong địa phận
này có linh mục nào dốt nát hèn hạ hơn tôi, chắc
hẳn Chúa đã dùng linh mục đó rồi chứ
chẳng dùng đến tôi đâu.
Cha đã lên tới bậc rất
cao của đức khiêm nhường, chẳng những
khinh dể và ghét mình mà cha còn nghĩ ai nấy đều
khinh dể mình nữa. Khi thấy ai tỏ lòng tôn kính và khen
ngợi việc cha làm thì cha buồn. Cha thường
giảng:
- Người nào hay bắt
bẻ, chê trách và kể các sự xấu của chúng ta,
đó là người thật lòng yêu thương chúng ta.
Chúng ta phải nghe và tin lời người ấy vì đó
là lời thật. Còn người nào khen chúng ta và các
việc chúng ta làm, đó là người phỉnh phờ,
tâng bốc, làm hại chúng ta đấy. Đừng tin vào
những lời đó.
Khi xem những thư người ta
gửi đến cho cha mỗi ngày, thấy thư nào khen
ngợi và tôn kính quá thì cha xé bỏ không xem nữa. Cha
thường thích nghe giảng và đi nghe các cha khác
giảng, nhưng khi linh mục giảng lời nào khen cha,
cha vội vàng ra khỏi nhà thờ hay là vào phòng áo ngay, không
ở lại nghe giảng nữa. Ai nói lời nào khen cha hay
các việc cha làm trước mặt, cha lấy làm buồn
và xấu hổ.
Có lần đức giám mục
đến kinh lược xứ Ars tỏ lòng tôn kính,
gọi cha là đấng thánh thì cha lấy làm buồn và
xấu hổ, cha nói:
- Khốn thân tôi! Khốn
thân tôi! Tôi tưởng chỉ những người không
biết tôi mới tôn kính tôi mà thôi. Nhưng đức giám
mục là đấng thông minh mà cũng chẳng biết tôi
nữa.
Các linh mục giúp xứ Ars biết
cha rất khiêm nhường nên không dám nói gì khen ngợi
trước mặt cha bao giờ, cũng không dám tỏ lòng
tôn kính quá, vì sợ cha buồn. Cha Gioan không nói đến
cha và các việc làm của cha bao giờ, nếu có nói thì
chỉ toàn những lời khiêm tốn, hạ mình, coi mình là
hèn. Khi cha nói đến thân xác của mình: "Xác hèn
của tôi." Khi nói đến linh hồn: "Linh
hồn đáng thương của tôi."
Cha chỉ nói đến tội
lỗi mình luôn. Cứ theo như lời cha nói, ở
thế gian này không ai phạm tội nhiều bằng cha.
Cha luôn ước ao được nhiều thì giờ thong
thả để vào nơi vắng vẻ mà ăn năn
đền tội, cha tìm cách trốn khỏi xứ
để vào dòng tu mà ăn năn đền tội và
dọn mình chết, cha thường than thở:
- Ôi! Chúa nhịn nhục
không phạt tôi, không bỏ tôi xuống hỏa ngục là vì
Chúa nhân từ thương xót tôi vô cùng.
Có một lần cha lo buồn
hơn mọi khi, đi từ nhà thờ về phòng cha ngã
hai lần, linh mục giúp xứ biết và đến
hỏi thăm, cha bảo linh mục ấy:
- Xác hèn của tôi không sao
cả, chỉ nhọc nhằn như mọi khi, nhưng
linh hồn của tôi rất khốn nạn vì ở
thế gian này, chẳng có ai khốn nạn và lắm tội
như tôi. Tôi luôn ước ao trốn khỏi xứ này,
tìm nơi vắng vẻ để ăn năn đền
tội.
Linh mục ấy đáp lại:
- Cha nói, cha khốn nạn
hơn mọi người ở thế gian, và không ai
khốn nạn bằng cha nhưng con biết có nhiều
người ước ao phải chi họ được
như cha. Có người muốn đổi thân phận
mình mà lấy thân phận của cha.
Cha Gioan đáp:
- Những người
muốn đổi vàng của mình mà lấy chì của tôi,
đó là người không biết tôi.
Cha Gioan thánh thiện nên cha xưng
thú tận đáy lòng, coi mình là người tội lỗi,
hèn hạ hơn hết mọi người ở thế
gian này. Điều này không có gì lạ vì các thánh ở
gần Thiên Chúa, luôn được ơn riêng của
Người soi sáng trong tâm hồn nên biết rõ Thiên Chúa là
Đấng cao cả cực thánh và biết tội lỗi
của mình dù nhỏ mọn thì cũng nặng nề và ghê
tởm, làm mất lòng Chúa và đáng phạt vô cùng. Nên dù
tội lỗi cha ít và nhẹ, cha cũng coi như nhiều
và nặng. Các thánh xưa nay đều coi mình là kẻ
tội lỗi đáng sa hỏa ngục, như Thánh
Bênađô luôn thấy cửa hỏa ngục mở sẵn
chờ nuốt mình vào, Thánh Mattinô Giám Mục luôn tin là
những sự khốn khó thời ấy mà ngài phải
chịu là do tội lỗi của ngài mà ra.
Cha Gioan hay khuyên người ta
hạ mình xuống sống khiêm nhường. Có
người hỏi cha phải làm gì để yêu mến
Chúa hết lòng, hết sức, cha trả lời:
- Phải hạ mình
xuống sống khiêm nhường. Ai càng hạ mình
xuống ăn ở khiêm nhường bao nhiêu thì càng kính
mến Chúa bấy nhiêu. Cũng như tội kiêu ngạo là
nguồn gốc sinh ra tội lỗi và các tính mê nết
xấu thế nào thì khiêm nhường là cội rễ sinh
ra các nhân đức như vậy.
Khi tôi cảm thấy loài
người hèn hạ yếu đuối và mê đắm
tội lỗi như thế, tôi không hiểu sao còn
nhiều người dám cậy mình kiêu ngạo như
vậy.
Một lần ma quỷ hiện
đến, tay cầm roi, giận dữ bảo với
Thánh Macariô tu rừng:
- Mày làm việc nào thì tao
cũng làm việc ấy, mày ăn chay còn tao nhịn đói
mãi không ăn bao giờ, mày thức suốt đêm, tao có
ngủ bao giờ đâu. Chỉ có một việc mày làm,
tao không làm được đó là mày hạ mình xuống
sống khiêm nhường là tao không làm được thôi.
Nói xong ma quỷ biến đi.
Xưa có nhiều đấng thánh phải chịu ma
quỷ cám dỗ về sự kiêu ngạo, các ngài than
thở:
- Than ôi! Tôi hèn hạ
khốn nạn dường nào!
Ma quỷ nghe lời khiêm
nhường ấy liền biến đi không dám cám dỗ
nữa. Cha vừa nói các lời ấy vừa khóc.
Ngày khác cha nói:
Người nào sỉ
nhục ta, đó là họ thương và làm ích cho ta.
Người nào tôn kính và khen ta, đó là người ghét và
làm hại ta. Xưa có người hỏi đấng thánh
kia: "Nhân đức nào cần và ích lợi cho
người ta nhất?" Đấng thánh đáp:
"Đức khiêm nhường". Người ấy
hỏi tiếp: "Nhân đức nào cần và ích lợi
thứ hai?" Ông thánh đáp: "Đức khiêm
nhường". Người ấy lại hỏi nhân
đức nào cần thứ ba? Ông thánh đáp:
"Đức khiêm nhường".
Cha nói tiếp:
Người ta chẳng
hiểu mình hèn hạ khốn nạn dường nào, khi tôi
nghĩ đến điều đó thì sợ hãi kinh
khiếp. Thiên Chúa không cho chúng ta biết mình khốn nạn
và hèn hạ cỡ nào, kẻo chúng ta biết mà sinh ra ngã lòng
thất vọng không sống nổi. Vì các thánh biết mình
tỏ hơn chúng ta nên coi mình là hèn hạ và ở khiêm
nhường.
2/ Cha Gioan rất nghèo, nhưng cha coi
của cải vàng bạc như không, chẳng ưa
chuộng và ao ước chút nào. Cha luôn nhớ đến
lời Thánh Hieronimô dạy: "lgnominia est sacerdoti studere
divitiis", và biết rằng sự ưa chuộng
của cải ràng buộc lòng mình vào những sự hèn
hạ dưới đất này và ngăn trở chúng ta
không bay lên trời được. Khi cha nói đến
việc người thế gian tham lam tìm kiếm của
cải đêm ngày thì coi họ là người dại
dột đáng thương. Cha luôn từ bỏ của
cải và luyện tập đức khó nghèo, không tỏ ra
muốn cái gì hay ước ao một vật nào bao giờ.
Dù cha rất nghèo, thiếu thốn mọi thứ mà cha
cứ kể mình là người đã có mọi thứ
chẳng thiếu gì.
Những năm cha mới về coi
xứ Ars, cha không có người giúp việc nên cha tự
làm bếp lấy. Sau này, người ta kéo đến
xứ Ars xưng tội với cha đông quá, cha không còn
giờ để làm bếp nữa. Cha mua thức ăn mà
người ta bố thí cho người nghèo, hoặc ăn
những của mà người ta dâng cúng cho cha. Khi ăn
những thức ăn ấy, cha lấy làm ngon lành lắm.
Cha thường nói:
- Khi
tôi ăn những thức ăn của người nghèo
quen dùng, tôi vui mừng chẳng khác gì tôi được
ngồi ăn cùng mâm với Chúa Giêsu vậy.
Cả đời cha chỉ ăn
của giáo dân cho cha. Khi cha giúp xứ Ecully và dạy học
ở làng Noe, cha đã quen ăn những thực phẩm mà
người ta cho. Còn ba mươi năm sau hết ở
xứ Ars, bà Catharina và hai bà nữa thay đổi nhau mà
nấu ăn cho cha.
Cha ăn mặc khó nghèo lắm,
chỉ một áo chùng thâm, mặc mãi cho đến khi cũ
rách, bạc màu quá mới thay. Mùa đông dù rét thế nào cha
cũng không mặc áo bông, áo kép. Một lần kia, thầy
Hieronimô quên áo bông trong phòng cha nên quay lại lấy. Cha
bảo với thầy:
- Cha không quên áo bông của
cha bao giờ.
Thầy dòng thưa:
- Thưa cha, cha không quên vì
cha không có áo bông.
Cha đáp:
- Đúng vậy đấy
con ạ.
Một linh mục cảm
thương cha, thưa với cha:
- Thưa cha, xưa tiên tri
Êlia lên trời thì để lại áo cho người môn
đệ là Êlisêo. Đến ngày cha lên thiên đàng, con xin
cha hãy để lại áo ngoài của cha cho con.
Cha đáp:
- Ông Êlia để áo ngoài
lại cho người môn đệ vì có áo lót ở trong;
phần tôi chỉ có một áo thì lấy gì để
lại cho thầy được.
Giày cha đi cũ rách, nhiều khi
rách đến há miệng; từ khi mua giày về cho
đến khi bỏ đi cha không bôi thuốc, không đánh
giày lần nào. Cha không dùng đồ đẹp, đồ
tốt, mà chỉ dùng đồ thường, đồ
kém.
Đất nhà xứ chật hẹp
cha không mở rộng ra; nhà xứ vừa thấp vừa
hẹp, cha để nguyên như vậy không sửa sang gì
vì cha nghĩ: "Phú nhuận ốc, đức nhuận
thân." Những người giàu có ở nhà sang trọng
lịch sự thì xứng đáng, còn mình là người hèn
mọn ở nhà thấp bé, xấu xí là phải. Hơn
nữa cha chỉ ở trong phòng mỗi ngày hai ba giờ vào
ban đêm là cùng, còn suốt ngày cha ở trong nhà thờ.
Phòng cha chật hẹp lắm,
chỉ có hai gian, tất cả đồ đạc trong
phòng gồm: một cái giường, một cái bàn viết,
mấy cái ghế lung lay, một tủ sách, một cái va-li
để tràng hạt, ảnh. Tất cả những
đồ đó đều là đồ đi mượn.
Thật ra đồ đạc của cha chỉ có vài
mẫu ảnh thánh quan thầy treo trên vách, một ảnh
chuộc tội, một tượng Đức Mẹ,
mấy cái bát sành, một chậu sành và hai cái niêu
đất mà thôi. Sau này bà Catharina thấy cha dùng những
đồ sành đen đủi, sứt mẻ khó coi,
đem bỏ đi mua đồ sứ thay vào đấy
nhưng cha không chịu, bắt bà trả lại những
đồ cha đã quen dùng. Cha bảo:
- Vậy bà nghĩ tôi ở
khó nghèo bắt chước Chúa Giêsu thì xấu mặt
lắm à!
Đến nay người ta còn
giữ căn phòng và các đồ đạc của cha
Gioan y như khi cha còn sống. Những người
đến viếng mồ cha quanh năm cũng đến
thăm viếng căn phòng ấy. Không những cha Gioan khi
còn sống làm gương về đời sống khó nghèo
và khuyên bảo người ta giữ đức nghèo, mà ngay
căn phòng cha ở và đồ dùng của cha cũng nói
lên sự nghèo, thúc giục người ta chê bỏ của
cải thế gian cho đến tận bây giờ.
Người viết tiểu sử
cha nói:
"Tôi
đã thấy nhiều người, khi bước vào phòng
ấy tỏ ra tôn kính chẳng khác gì khi đến
trước bàn thờ có Mình Thánh Chúa Giêsu vậy. Khi xem
thấy những đồ cha dùng và nhớ đến
việc lành cha đã làm trong phòng ấy hơn bốn
mươi năm, họ đã sấp mình xuống hôn kính
nền nhà và cảm động đến nỗi không
giữ nổi những hàng lệ rơi".
Thiên hạ dâng nhiều tiền
của cho cha Gioan vì biết cha không chuộng, không giữ
lại cho mình đồng nào, không cho anh chị em bà con
bạn hữu mình mà chỉ dùng tiền ấy để
làm việc lành nên họ sẵn lòng dâng cho cha nhiều
tiền của. Cha có lòng khó khăn thật và coi tiền
bạc như không, nên khi mất cha không tiếc. Có một
tối cha về phòng lấy nhầm một tờ giấy
bạc 500 quan tiền mà đốt đèn. Những người
có mặt ở đấy thì tiếc rẻ kêu lên:
- Mất năm trăm quan
tiền rồi!
Cha cười và bảo:
- Thôi, không hệ gì, tôi
mất năm trăm quan tiền không hại bằng khi tôi
phạm một tội mọn.
Cũng có khi người ta dâng cúng
tiền bạc cho cha nhưng cha không lấy. Một bà kia
giàu có và ngoan đạo dâng nhiều tiền để cha
làm việc lành nào tùy ý cha. Cha không nhận, lại bảo:
- Quê bà có nhiều
người thiếu thốn, bà hãy lấy tiền này mà
bố thí cho họ.
Linh mục giúp xứ Ars kể:
- Có bà kia giàu có nhưng hà
tiện, bà bị bệnh nhẹ thôi, bà dâng cha hai trăm
quan tiền, xin cha chữa mình khỏi bệnh. Sau đó
mấy tháng bà thấy mình chỉ bớt chứ không
khỏi thì đòi tiền lại, cha trả lại ngay.