PHẦN IV: CHA GIOAN VIANNEY CHỮA BỆNH PHẦN XÁC, PHẦN HỒN
Ơn Yên Ủi và Lời Cầu Xin
Mạnh Thế
của Cha Gioan
hẳng những người có
tội và người bệnh tật mới chạy
đến xứ Ars xin cha Gioan chữa phần hồn,
phần xác mà cả những người gặp đau
buồn, khốn khó cũng đến xin cha yên ủi.
Người lo buồn vì thương nhớ cha mẹ,
vợ con, anh chị em mình chết; người bị tai
bay vạ gió, tán gia bại sản; người gặp chồng
khó tính, khô khan, cứng lòng hay con cái bất hiếu, say
sưa trụy lạc; người bị chèn ép, ức
hiếp; người sẩy chân lỡ bước bỏ
qua vận may; người túng cực đói nghèo, tất
cả mọi người không phân biệt giàu nghèo,
quyền thế hay dân quê đều chạy đến xứ
Ars xin cha Gioan yên ủi, khuyên bảo.
Khi nghe kể
về những khó khăn họ gặp, cha động lòng
thương, cha vừa cầu xin vừa khóc rồi
mới yên ủi và khuyên bảo họ. Cha
không nói nhiều, chỉ nói một hai lời thôi, nhưng
lời nào của cha cũng như thuốc tốt chữa
bệnh tận gốc, làm giảm bớt sự đau
đớn buồn phiền ngay tức khắc và chữa
lành những vết thương đang rỉ máu. Lời cha yên ủi không khác gì dầu của
người Samaritanô nhân hậu đổ lên trên những
vết thương của người bị cướp,
khi trên đường tới Giêricô. Lời cha
dạy bảo yên ủi có ơn đặc biệt, có
sức mầu nhiệm vì là lời Chúa soi sáng chứ không
phải lời riêng của cha.
Một người đàn bà còn
trẻ nhưng đã có 5 con, đứa bé còn nhỏ
lắm. Khi thấy mình lâm bệnh sắp chết, vì
thương đoàn con bơ vơ bà
không muốn rời bỏ chúng, và lo buồn sầu não,
nuối tiếc sự sống không muốn chết.
Nhưng khi cha Gioan đến thăm viếng, yên ủi, bà
ấy không những sẵn lòng theo thánh ý Chúa mà còn
ước ao chết, bà nói:
- Dù tôi chết các con của
tôi không bị mồ côi, vì Thiên Chúa là cha nhân từ sẽ
dưỡng nuôi coi sóc chúng còn chu đáo hơn tôi bội
phần.
Có một nhà triệu phú chỉ có
một đứa con duy nhất bị mắc bệnh
rồi chết. Mẹ nó buồn bã khóc lóc
thương tiếc con còn hơn bà Rachel ngày xưa. Người ta thấy bà lo buồn khóc lóc đêm
ngày, chỉ sợ bà ấy sinh bệnh rồi chết, nên
họ khuyên bà đến xứ Ars xin cha Gioan yên ủi.
Bà ấy chịu đi. Khi từ xứ
Ars trở về, không những bà bằng lòng theo
thánh ý Chúa mà còn vui mừng, tạ ơn Chúa đã cứu con
mình khỏi những dịp hiểm nghèo thường
gặp ở thế gian này mà đem lên chốn thanh nhàn vui
vẻ đời đời.
Một gia đình quý tộc sang
trọng kia gồm có hai vợ chồng
và bảy đứa con còn nhỏ. Không may người
vợ chết bất thình lình, ông chồng buồn sầu
đến nỗi ăn không ngon ngủ
không yên, không muốn nghe ai yên ủi. Trước đây,
cha Gioan chưa hề gặp hai vợ chồng ấy bao
giờ, nhưng nhờ ơn Chúa soi sáng, cha kể cho người
chồng nghe về các nhân đức, các việc lành
người vợ đã làm khi còn sống, như giúp
đỡ người nghèo túng cực, chẳng khác gì
như cha Gioan đã quen biết gia đình ấy từ lâu
rồi. Cha còn nói: "Bà
ấy đã được lên thiên đàng rồi và
rất mạnh thế trong việc cầu xin giúp
đỡ cho các con cái hơn là khi bà còn ở thế gian".
Người chồng nghe thế thì hết lo
buồn, ông được yên ủi và vui mừng lắm.
Có một
người Do Thái, tên là Herman, ông là người rất tài
giỏi và giàu có. Ông được Chúa soi sáng nên bỏ
đạo Do Thái mà trở lại Kitô Giáo. Cha mẹ ông cho
điều ấy là điếm nhục gia phong nên giận
dữ từ con, truất quyền thừa kế của
ông. Nhưng ông Herman không hề tiếc của cải, danh
tiếng và những sự sang trọng thế gian, ông
chỉ biết vâng theo ơn Chúa mà
giữ đạo vững vàng sốt sắng. Sau này ông vào
Dòng Carmel, chịu chức linh mục và nổi tiếng là
người đạo đức và có tài hùng biện.
Đêm ngày vị tu sĩ ấy luôn cầu xin với Chúa,
xin Chúa mở lòng, mở trí cho mẹ mình bỏ đạo
Do Thái để trở lại Kitô Giáo, nhưng bà ấy
cứng lòng lắm và bà đã chết khi chưa trở
lại. Thầy Herman được tin mẹ mình chết
khi chưa trở lại Kitô Giáo, nên lo buồn khóc lóc. Thầy đến xứ Ars, kể với cha
Gioan việc mình đêm ngày cầu xin cho mẹ trở
lại đạo mà không được. Bấy
giờ cha Gioan bảo:
- Thầy hãy yên lòng,
đừng lo buồn khóc lóc nữa vì Chúa đã nghe lời
thầy cầu xin, đã soi sáng cho mẹ thầy ăn
năn tội cách trọn trong lúc hấp hối, nên bà
ấy đã được rỗi linh hồn.
Nghe thế,
thầy Herman được yên ủi và vui mừng
biết là chừng nào.
Có hai anh em ruột
thương yêu nhau lắm. Không may người em bị
người ta làm hại khiến anh mất hết cơ
nghiệp. Anh buồn bực và phẫn uất nên bỏ gia
đình, quê hương mà vượt biển sang Tân Thế
Giới. Sau hai năm, người anh được tin em
mình chết, anh lo lắng, bối rối không biết khi
chết em mình có tha thứ cho những người làm
hại mình và có được rỗi linh hồn chăng. Anh đến xứ Ars trình bày với cha Gioan
điều ấy. Cha Gioan hẹn đến sáng mai,
cha sẽ cho biết. Sáng hôm sau, khi dâng lễ xong, cha
bảo người ấy:
- Em con đã được
rỗi linh hồn nhưng còn phải giam trong luyện
ngục. Con hãy làm việc lành phúc đức để linh
hồn em con chóng được lên thiên đàng.
Trong những người
đến xứ Ars, nhiều người có tội tìm
đến để xưng tội và ăn năn
trở lại với Chúa. Nhưng còn có nhiều
người nhân đức, tốt lành không có gì khốn
khó, họ đến xứ Ars chỉ để
được gặp cha Gioan, xem các việc cha làm, cách cha
sống, nhất là xin cha cầu nguyện cho mình. Vì mọi người đều biết cha có uy
tín trước mặt Chúa và cha xin gì cũng
được, nên ai nấy cũng muốn đến
xứ Ars xin cha cầu nguyện cho mình.
Người ta tin như vậy là
phải, vì những người nhờ cha cầu xin
đều được nhận lời, vì cha luôn luôn
cầu nguyện. Cha vốn hâm mộ việc cầu
nguyện từ thuở bé, cha coi sự cầu nguyện là
êm ái và vui thích, nên luôn ước ao mình được thư thả để cầu nguyện. Cha
thường nói:
- Sự cầu nguyện làm
cho ta khỏi buồn bã âu sầu và được bằng
an trong tâm hồn.
Khi nào cha không
bận giải tội, giảng giải, khuyên bảo
người ta, thì cha cầu nguyện không bỏ phí
một giây phút nào.
Cha cầu nguyện lúc từ phòng ra
nhà thờ hay ở nhà thờ trở về phòng, cha cũng
cầu nguyện lúc đi đường đưa
của ăn đàng cho người
hấp hối. Lòng cha luôn tưởng nhớ
đến Chúa. Ban đêm, cha ngủ rất ít, có
nhiều khi thức suốt đêm, khi không ngủ
được thì cha cầu nguyện, cha thức dậy
lúc nào thì hướng lòng đến Chúa Giêsu đang
hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và tưởng
như mình đang quỳ trước bàn thờ, giục
lòng kính mến Chúa, hợp với các thiên thần và các thánh
mà thờ lạy, ngợi khen, cảm tạ Chúa hết
lòng.
Cha hay cầu nguyện trong trí nên
không mấy khi đọc ra ngoài miệng, cha thường
nói:
- Khi chúng ta ở
trước bàn thờ có Mình Thánh Chúa Giêsu, hãy giục lòng
tin Người đang ngự trước mặt mình,
rồi hãy dùng lòng trí mà thờ lạy, tạ ơn,
ngợi khen và yêu mến Chúa, chẳng cần phải nói
nhiều lời hay đọc nhiều kinh ngoài miệng.
Khi cầu nguyện, cha hay nhờ
Đức Mẹ dâng công nghiệp Chúa Giêsu lên Chúa Cha
để xin cho người có tội được
ăn năn trở lại.
Cung cách cha lúc
cầu nguyện rất nghiêm trang, khiêm nhường và
sốt sắng. Cha không ra vẻ đạo đức,
để tỏ ra hơn người khác hay khác
người, cha không thở dài, không đọc kinh lớn
tiếng, không bái quỳ sâu hơn mọi người,
những lời cầu nguyện của cha luôn tự phát,
làm đẹp lòng Chúa nên cha cầu xin điều gì
đều được Thiên Chúa ban cho. Nếu
những năm tháng thời thơ ấu cha đã
được Thiên Chúa yêu thương cách riêng thì những
năm sau này cha càng làm đẹp lòng Người và càng xin
được nhiều ơn hơn nữa. Do đó
mọi người đều kéo đến để xin
cha Gioan cầu nguyện cho mình.
Có một người mù đến
xứ Ars để xin cha Gioan chữa cho mình, ông nói với
người ta:
- Nếu cha xứ muốn
chữa mắt tôi sáng thì chữa được ngay, vì cha
cầu xin điều gì Chúa liền ban cho người
điều ấy.
Những ai không thể đến
xứ Ars được, họ gửi thư
cho cha Gioan, nên bưu điện mỗi ngày đem cho cha
rất nhiều thư từ khắp nơi trên thế
giới, có ngày hai mươi, ba mươi thư. Những
thư ấy có ý xin cha cầu nguyện cho mình, có thư xin
tạ ơn vì đã được như ý, có thư xin
cha cầu nguyện cho người có tội
được ăn năn trở lại, hay cho
người bệnh được chữa lành, có thư
bàn hỏi với cha những việc khó khăn, có thư
của các giám mục, linh mục xin cha cầu nguyện cho
con chiên của giáo phận hay giáo xứ. Cha Gioan xem qua
tất cả những lá thư đó,
rồi tùy theo sự cần thiết cha nhờ cha phó
viết thư trả lời giúp, vì cha quá bận và không có
thời giờ.
Chúa Giêsu đã phán: "Ai xin thì
sẽ được". Cha Gioan tin chắc chắn vào
lời ấy nên cha luôn cầu xin đêm ngày và cha xin gì
cũng được. Sự cầu
nguyện là công việc thiết yếu của
người linh mục. Chúng ta hãy bắt chước
cha Gioan siêng năng cầu nguyện cùng Chúa luôn mãi, nhất
là cầu cho người có tội ăn năn trở
lại cùng Chúa thì sẽ được nhận lời, vì
Chúa Giêsu đã phán như vậy.