PHẦN III: DÂN CHÚNG TỪ KHẮP NƠI KÉO
ĐẾN XƯNG TỘI VỚI CHA GIOAN TRONG NHỮNG NĂM 1826 - 1859
Giảng Giải Giáo Lý, Những
Điều Cần Thiết Để Được
Cứu Rỗi
hi cha Gioan lập
những nhà nuôi trẻ mồ côi, mỗi ngày một
lần, ngài thường giải thích giáo lý và cắt
nghĩa các điều cần thiết để chúng
được rỗi linh hồn. Lúc ban đầu,
khoảng một giờ trưa, cha đến ngồi
giữa nhà giải thích giáo lý cho trẻ chừng nửa
giờ. Những người làng Ars cũng
đến đông lắm, và vì nuôi trẻ chật chội
không đủ chỗ ngồi nên cha ra nhà thờ cắt
nghĩa giáo lý. Sau này, khi thiên hạ ở khắp
tứ phương kéo đến xứ Ars, thì cha làm
việc ấy vào buổi sáng mỗi ngày cho đến khi
qua đời. Khoảng mười một
giờ trưa, khi nghe chuông nhà thờ đổ, dân làng Ars
và những người tứ xứ kéo đến ngồi
chật nhà thờ và ngoài hè để nghe cha Gioan giảng.
Người viết tiểu sử
cha Gioan cho biết:
"Vì cha Gioan làm
việc ấy mỗi ngày nên trở thành người
giảng thuyết lừng danh khắp nơi. Mang tiếng là
cắt nghĩa giáo lý cho trẻ, nhưng nhân dịp đó,
cha cũng dạy hết mọi người. Người
ta thấy cha Gioan giảng những lý lẽ chắc
chắn, sốt sắng, làm cho nhiều người xúc
động muốn được nghe mãi không chán. Bấy giờ, có một số người ghi
chép những lời cha giảng và đã in thành sách cho
những người khác được nhờ".
Ở đây xin tóm
một vài bài để biết cha Gioan đã giải
nghĩa giáo lý như thế nào.
Bài 1: Về Chức Linh Mục
Khi cha Gioan giải thích bí tích
truyền chức thánh thì giảng về chức linh
mục như sau:
"Có nhiều người nghĩ
rằng: 'Bí tích truyền chức chỉ dành riêng cho
những người chịu chức linh mục thôi, không
can dự gì đến giáo dân, vì giáo dân không chịu bí tích
này. Ai nghĩ vậy thì thật sai lầm! Vì bí tích
truyền chức hướng đến mọi
người và làm ích lớn lao cho
mọi người. Bởi có bí tích truyền
chức mới có linh mục. Trước khi Chúa Giêsu
lên trời, Người truyền chức cho các Tông
Đồ và sai đi rao giảng khắp thế gian nhân
danh Người: 'Thầy đã được ban cho
mọi quyền trên trời dưới đất, các con
hãy đi rao giảng cho muôn dân; ai tin và giữ mọi
lời ấy sẽ được cứu, ai không tin
sẽ phải án phạt đời đời. Cha Thầy
đã sai Thầy thế nào thì Thầy cũng sai các con
như vậy. Ai nghe các con là nghe Thầy, ai
khinh dể các con là khinh dể Thầy'.
Người
được làm linh mục là thay mặt Chúa Giêsu ở
thế gian này. Linh mục ngồi tòa giải
tội cho người ta, thánh hóa Mình Thánh và làm các bí tích khác
thay mặt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là
Đấng Chuộc Tội cho loài người nên mọi
sự lành người ta được, tất cả
đều bởi Người. Vậy linh mục là
người thay mặt Chúa Giêsu, là Chúa Giêsu ở
dưới đất, nên một cách nào đó mọi
ơn và mọi sự lành người ta được
đều bởi linh mục ban phát. Khi anh
chị em ở trong lòng mẹ sinh ra là người
nghịch với Thiên Chúa và làm tôi ma quỷ. Ai làm cho
anh chị em được khỏi tội và trở nên con
cái Thiên Chúa, nên con cái Hội Thánh? Thưa
đó là linh mục.
Ai truyền phép
Mình Thánh làm cho Chúa Giêsu ngự thật trên bàn thờ đêm
ngày?
Đó là linh mục. Ai
đưa Mình Thánh Chúa Giêsu làm của nuôi linh hồn anh
chị em? Đó là linh mục. Khi
anh chị em phạm tội trọng, mất nghĩa
với Thiên Chúa và làm cho linh hồn mình ra dơ dáy, xấu
xa. Ai tha tội và làm cho anh chị em lại
được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa? Đó là linh mục. Ai rửa linh hồn anh
chị em thanh sạch, sáng láng? Đó là linh
mục. Đến giờ sau hết, lúc gần
chết, ai sửa sang linh hồn anh chị em nên tốt
lành xứng đáng đến trước tòa Chúa Giêsu mà
chịu phán xét? Ai đưa của ăn
đàng cho anh chị em? Đó là linh mục.
Đức Mẹ
và các thiên thần không giải tội cho anh chị em
được, không cho anh chị em chịu lễ, không
truyền phép Mình Thánh được. Dù
một vạn thiên thần cũng không tha một tội
nhỏ mọn của anh chị em được.
Nhưng linh mục truyền phép Mình Thánh được,
cho anh chị em chịu lễ được, tha tội
cho anh chị em, rửa linh hồn anh chị em cho thanh
sạch, đẹp đẽ trước mặt Chúa vì
Chúa Giêsu ban quyền ấy cho các linh mục.
Linh mục như
là người giữ kho ơn thiêng của Chúa, luôn gìn
giữ và phân phát các ơn Chúa cho thiên hạ. Nếu
không có linh mục, ta không được hưởng công
nghiệp nhờ sự Thương Khó Chúa Giêsu
được. Thí dụ: như kho đầy vàng
bạc, nếu không ai mở cửa thì chẳng ai vào
lấy được những của cải trong kho
ấy ra. Cũng thế, nếu không có linh mục ban phát
công nghiệp của Chúa Giêsu cho chúng ta thì chúng ta không
được hưởng nhờ công nghiệp ấy. Linh mục như chìa khóa mở cửa thiên
đàng, như máng chuyên ơn Chúa xuống cho người
ta. Thí dụ: như giếng kia
đầy nước ngọt và trong, nhưng sâu lắm,
phải có dây và gàu mới lấy nước lên
được. Vậy linh mục như gàu
như dây dùng mà lấy nước. Nếu
ta không có linh mục thì không được hưởng
nhờ công nghiệp Chúa Giêsu chút nào.
Ôi! Quyền phép linh mục cao
trọng dường nào! Khi ta còn ở trên
thế gian này, ta sẽ không hiểu được
quyền phép ấy cao trọng tới mức nào, chỉ
khi lên thiên đàng chúng ta mới hiểu được
điều ấy.
Nhưng linh
mục chỉ dùng quyền phép mình mà thi hành các bí tích cho
người khác, nhưng không làm các bí tích ấy cho mình
được. Khi linh mục có tội thì không tha
tội cho mình được. Đến
giờ chết, linh mục không ban bí tích sau hết cho mình
được mà phải nhờ một linh mục khác làm
cho mình.
Nếu như không có linh mục coi
sóc, giảng dạy, khuyên bảo cùng thi hành các bí tích cho con
chiên, chỉ 20, 30 năm người ta sẽ bỏ
đạo hết, không còn ai giữ đạo nữa.
Nhiều vua đã cấm cách, bắt đạo, cũng
cố bắt linh mục mà không bắt giết các bổn
đạo, vì họ biết khi không còn các linh mục làm
lễ, ban các bí tích và dạy dỗ giáo lý thì đạo
sẽ mất dần và sẽ chẳng còn ai giữ
đạo nữa.
Khi anh chị em thấy linh mục
thì phải suy nghĩ rằng: 'Đây là Đấng thay
mặt Chúa, làm phép rửa tội cho tôi, để tôi
trở nên con cái Thiên Chúa và con cái Hội Thánh. Ngài là
người đưa Chúa Giêsu ở trên trời ngự
xuống trên bàn thờ, làm của nuôi linh hồn tôi, là
Đấng rửa linh hồn tôi cho sạch, giúp tôi lấy
lại ơn nghĩa với Chúa khi tôi mất ơn
nghĩa cùng Chúa, là Đấng ban phát các bí tích sau hết cho
tôi lúc hấp hối và mở cửa thiên đàng cho tôi vào.
Vậy linh mục
là người có quyền thế, làm nhiều ơn ích cho
anh chị em dường ấy thì anh chị em phải kính
trọng, biết ơn các linh mục. Khi xưa, Thánh
Phanxicô rất có lòng kính trọng các linh mục, ngài nói:
"Nếu tôi gặp một linh mục và một thiên
thần cùng một lúc, tôi sẽ chào vị linh mục
trước". Chẳng những là chúng ta
phải kính trọng các linh mục mà phải vâng lời các
ngài. Ai vâng lời các linh mục là vâng
lời Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phán như thế. Linh
mục chỉ dạy anh chị em những chân lý,
điều phải và có ích, anh chị em vâng lời các ngài
thì sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, được
bằng yên ở đời này và hưởng phúc thanh nhàn
đời sau vô cùng. Amen".
Bài 2: Linh Hồn Người Ta
Rất Quý Trọng Nên Phải Gìn Giữ Linh Hồn
Sạch Mọi Tội
"Người
thế gian chế ra nhiều loại máy móc tinh xảo,
nhiều điều khôn ngoan, nhưng những việc
ấy sánh với những việc của Thiên Chúa thì
như trò trẻ con. Thiên Chúa là Đấng
phép tắc vô cùng chỉ phán một lời liền có
đất trời. Trời có nhiều lớp
nhiều tầng; đất có Đông, Tây, Nam, Bắc, có
sông suối chảy, có núi cao vời vợi, chung quanh
đất có biển mênh mông, khi lên khi xuống; trên
đất có lửa có khí. Trên trời có mặt trời,
mặt trăng và các ngôi sao luôn xoay vần soi sáng thế
gian. Mặt trời mặt trăng thay đổi nhau soi
sáng nên có ngày có đêm, có năm, có tháng, có tứ thời bát
tiết, có nắng mưa để cày cấy và gặt
hái.
Trên mặt
đất có nhiều gió thay đổi nhau mà thổi
tư bề. Đất cứ theo mùa sinh ra
lúa thóc, hoa quả, các giống thảo mộc nuôi loài
người và muôn thú trên trần gian. Những
điều ấy còn mãi chẳng thay đổi bao giờ,
đời trước thế nào, đời sau vẫn
vậy. Trời đất chẳng khác
gì chiếc đồng hồ, nó chạy luôn mãi, đã
hơn bao triệu năm chẳng sai, chẳng dừng
lại bao giờ. Đó là những sự lớn lao mắt anh em xem thấy được mà
trí khôn suy không thấu. Còn những
điều người ta làm ra mà sánh cùng những việc
ấy thì chẳng khác gì trò trẻ con.
Mọi việc Thiên Chúa làm, mọi
vật Người dựng nên thì lớn lao,
cao trọng, khéo léo quá sức loài người tưởng
tượng, nhưng trong các điều ấy, linh hồn
người ta là cao trọng nhất, cao trọng hơn
trời đất này vì linh hồn thì thiêng liêng, không
hề hư hoại, chẳng hề tiêu tan. Trời
đất này sẽ qua đi, sẽ đến ngày thế
mạt nhưng linh hồn sẽ còn mãi vô tận.
Thiên Chúa yêu quý linh
hồn anh chị em đến nỗi Người ngự
ở nơi ấy và thích ở đấy hơn ngai tòa
của Người trên thiên đàng. Một lần kia, Chúa Giêsu cho thánh nữ Catharina thấy linh
hồn ấy quý đẹp, sáng láng tốt lành quá sức
nên than thở với Chúa Giêsu:
"Lạy Chúa Trời con! Chúa
dạy con phải tin có một Đức Chúa Trời mà
thôi. Nếu như con không tin điều ấy thì khi xem
thấy linh hồn này đẹp đẽ sáng láng dường
ấy, con tưởng có hai Đức Chúa Trời".
Anh chị em muốn biết linh
hồn mình cao quý thế nào, cứ suy điều này:
"Giống gì, vật gì đều có giá trị riêng;
giống quý trọng thì đắt và hiếm, còn giống
nào, vật nào tầm thường thì nhiều và
rẻ." Lúc ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên linh
hồn người ta sáng láng tốt lành, nhưng bởi
tổ tông đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên
Chúa nên linh hồn người ta ra hoen ố, hướng
chiều về điều xấu và lệ thuộc
quyền năng của ma quỷ. Chúa Giêsu vì
thương linh hồn người ta bị hủy
diệt đời đời nên đã chịu chết mà
cứu chuộc chúng ta. Anh chị em hãy
nghĩ xem Chúa Giêsu lấy gì mà cứu chuộc linh hồn
người ta thì anh chị em sẽ thấy linh hồn quý
giá dường nào. Chúa Giêsu không dùng
của cải vàng bạc, để cứu chuộc linh
hồn anh chị em đâu, vì một linh hồn còn quý
trọng hơn cả thế gian, huống chi linh hồn
của hết mọi người trên thế gian này. Chúa Giêsu đã đổ hết máu mình mà chuộc
lấy linh hồn anh chị em. Anh
chị em hãy suy điều ấy thì biết linh hồn anh
chị em quý trọng biết bao.
Chúa Giêsu coi linh hồn
anh chị em rất quý trọng nên đã cứu chuộc
với giá cao như thế mà anh chị em không lấy
đó làm quý trọng linh hồn anh chị em hay sao? Không
những anh chị em không coi linh hồn mình làm trọng mà
nhiều người còn coi thường nó lắm. Dù
xác thịt thấp kém, là cát bụi nhưng có nhiều
người coi xác thịt trọng hơn linh hồn mình,
họ sẵn sàng chiều theo xác thịt mà để linh
hồn mình ra hư mất; có nhiều người cả
đời lo cho xác thịt được khỏe
mạnh, no đủ, sung sướng mà để linh
hồn đói khát, chẳng hề lo đến linh hồn
mình bao giờ. Than ôi! Biết bao người vì tham lam
của cải và vui thú đời này mà mất linh hồn
đời đời.
Linh hồn anh
chị em cao trọng lắm nên anh chị em phải gìn
giữ linh hồn cho thanh sạch, vì chỉ người
giữ linh hồn thanh sạch mới làm đẹp lòng
Chúa.
Xưa các thánh đã bỏ thế gian lên rừng hãm mình, ăn chay, phạt xác để giữ linh
hồn sạch tội. Người nào càng
giữ linh hồn mình sạch tội bao nhiêu thì trên thiên
đàng càng ngồi tòa cao gần ngai Thiên Chúa bấy nhiêu.
Những người giữ được
linh hồn mình thanh sạch, họ xin điều gì cùng Chúa
sẽ được nhận lời.
Anh chị em hãy suy
hạnh Thánh Maurô, học trò Thánh Benedictô. Một lần,
Thánh Maurô đem cơm đến cho Thánh Benedictô và các thày
dòng đang làm ngoài đồng, thầy gặp một con
rắn lớn và độc lắm, liền bắt bỏ
vào vạt áo của mình. Con rắn nằm yên trong vạt áo
thầy không phản kháng gì. Khi đến nơi, thầy
mở vạt áo ra cho Thánh Benedictô và các thầy dòng xem và nói:
"Thưa cha khi đi đường con nhặt
được con rắn này". Lúc ấy rắn phùng mang
phun phì phì muốn mổ người này người kia. Thánh Benedictô bảo thầy Maurô: "Con
hãy đem nó trả về chỗ cũ". Thầy Maurô
vâng theo. Khi thầy đi rồi, Thánh
Benedictô nói: "Xưa ông Adong chưa phạm tội,
được quyền cai trị muôn thú dữ, bảo sao
chúng cũng nghe, không hề làm hại gì. Nhưng khi
Adong phạm tội thì mất quyền ấy vì đã
phản nghịch cùng Thiên Chúa, nên muôn thú dữ cũng
phản nghịch con người. Vậy con rắn kia hiền lành, không mổ thầy Maurô vì
thầy giữ mình thanh sạch từ lúc rửa tội cho
đến nay, tâm hồn thầy như Adong khi chưa
phạm tội.
Ai muốn giữ mình sạch
tội phải làm ba điều nầy:
1. Luôn nhớ mình hiện diện
trước mặt Chúa.
2. Phải siêng năng đọc kinh cầu nguyện.
3. Phải năng xưng tội, chịu lễ.
Bài 3: Bằng Lòng Chịu Mọi
Sự Khó Khăn Ở Đời Này
Cha Gioan hay giảng về sự
thương khó của Chúa Giêsu. Cha giảng rõ ràng, sốt
sắng, ai nghe cũng xúc động chảy nước
mắt như họ được xem thấy Chúa Giêsu
chịu thương khó ngay trước mắt mình. Sau khi giảng về sự thương khó Chúa,
cha giảng về các thánh tử đạo và kể
nhiều câu chuyện của các thánh ấy khi các ngài
bằng lòng chịu mọi sự đau đớn
khốn khó. Câu chuyện sau đây
thường được cha kể lại vì chính
mắt cha xem thấy.
Cách đó một
ít năm, trong một xứ gần đấy, có một
thanh niên mười bảy tuổi, ốm đau hoài, trong
mình bứt rứt không yên. Cha đến thăm và ban các bí tích
cho anh và hỏi anh rằng:
- Con ơi! Con có đau lắm không?
Người thanh niên thưa:
- Thưa cha có nhưng không đau lắm, vì những sự
đau đớn con chịu hôm qua đã qua rồi, mà
những đau đớn con chịu ngày hôm nay cũng
sẽ qua đi. Đời này chóng qua lắm nên những
sự đau đớn cũng chóng qua thôi, cha ạ! Con suy
nghĩ điều ấy thì thấy rất an
ủi và sự đau đớn của con trở nên
nhẹ nhàng.
Cha Gioan hỏi tiếp:
- Con có ước ao khỏi bệnh không?
Người thanh niên thưa:
- Thưa cha, con không ước ao khỏi bệnh, vì khi con
khỏe, con xấu nết và tội lỗi lắm, nếu
như con khỏi bệnh, có khi con lại xấu nết và
tội lỗi hơn trước, con sợ điều
ấy nên sẵn lòng chịu đau đớn bệnh
tật suốt đời.
Người thanh niên ấy coi
việc đau đớn bệnh tật có ích hơn
sự khỏe mạnh vì được ơn Chúa Thánh
Thần soi sáng cho biết việc nào có ích cho mình hơn. Có
người yêu chuộng sự khỏe mạnh phần xác
và kinh sợ sự đau đớn bệnh tật vì
người ấy không có ơn Chúa soi sáng, họ không phân
biệt được tốt xấu, lành dữ.
Khi Chúa cho chúng ta
phải chịu sự khốn khó thì chúng ta thường
phàn nàn kêu trách và ngã lòng, chúng ta sợ những gì trái với
ý muốn và luôn luôn muốn được vừa ý, được
bằng yên luôn mãi, không muốn khốn khó, vì chúng ta không
biết thánh giá là đường lên thiên đàng. Chúng ta phải tin
rằng những tai vạ và mọi
sự khốn khó là bậc thang đưa chúng ta lên thiên
đàng. Hơn nữa, những sự
khốn khó ấy đều chóng qua.
Thánh giá là bậc
thang dùng để lên thiên đàng. Người
nào sẵn lòng chịu khó vì Chúa Giêsu thì thật có phúc.
Lúc xét mình ban tối hãy suy nghĩ: Hôm nay tôi có
được nên giống Chúa Giêsu không? Nếu
vác thánh giá với Người được hai ba giờ,
tôi nên vui mừng trong lòng, vì lập được công phúc
cho đời sau và đến giờ chết sẽ
được yên ủi biết là chừng nào.
Dù muốn hay không,
ai cũng phải chịu đau khổ ở đời
này.
Có người chịu khổ, chịu đau
đớn như người trộm lành, lại có
người chịu đau đớn, khốn cực
như người trộm dữ. Cả
hai cùng chịu một đau khổ như nhau, nhưng
người trộm lành sẵn lòng chịu đau khổ
để đền tội mình, nên được nghe
lời Chúa Giêsu bảo, "Ngay hôm nay ngươi sẽ
ở trên thiên đàng với Ta". Còn
người trộm dữ miễn cưỡng chịu và
kêu trách, nói lời phạm thượng với Chúa Giêsu nên
phải chết khốn nạn mất linh hồn.
Có hai cách chịu đau khổ:
Một là sẵn lòng chịu vì kính mến Chúa; hai là
miễn cưỡng chịu, không vì lòng yêu mến Chúa. Các thánh thường sẵn lòng chịu đau
khổ vì các ngài yêu mến Chúa nhiều. Phần
chúng ta, khi gặp đau khổ thì giận dữ, kêu than vì
chúng ta không có lòng yêu mến Chúa. Nếu
chúng ta có lòng yêu mến Chúa, tức khắc chúng ta sẽ
ước ao chịu đau khổ vì Chúa để thông
phần đau khổ với Người. Khi chúng ta
gặp phải sự khốn khó thì đừng kêu trách, vì
nếu chúng ta bằng lòng chấp nhận, chúng ta sẽ
được công phúc và phần thưởng lớn, không
như những người ngoại đạo, họ
không biết Chúa, họ chịu nhiều đau khổ
như chúng ta và nhiều khi khốn khó hơn chúng ta
nữa, nhưng uổng công vô ích, không mong được
công phúc phần thưởng gì ở đời sau cả.
Hoặc chúng ta
nghĩ chịu đau khổ mãi thì khổ lắm. Không
phải vậy đâu, vì đối với người yêu
mến Thiên Chúa thì sự khốn khó đối với
họ trở nên êm ái nhẹ nhàng.
Bình thường
khi mới gặp khốn khó, ai cũng thấy nặng
nề khó chịu nhưng khi đã cố gắng gánh
chịu một ít, nếu có lòng mến Chúa thì sự
khốn khó sẽ trở nên nhẹ nhàng, êm vui. Vì
chúng ta quá khiếp sợ đau khổ nên chỉ nghĩ
đến thôi cũng đã thấy khổ rồi. Càng sợ đau khổ, có trốn tránh đau
khổ cũng chẳng được, vì dù có làm cách nào
đi nữa, chúng ta cũng chẳng thoát được
đau khổ. Chúng ta đừng quá
sợ đau khổ, nhưng phải sẵn lòng chịu
đau khổ và coi đó như bậc thang đưa chúng
ta lên thiên đàng.
Người
thế gian sợ hãi và trốn tránh đau khổ hết
sức, nhưng càng tránh họ càng gặp phải khốn
khó nhiều hơn. Phần chúng ta
đừng sợ, đừng tránh đau khổ, hãy
ước ao đón nhận như Thánh Anrê tông đồ.
Khi thấy thánh giá mà quân lính chuẩn bị dành cho mình, ngài
vui mừng kêu lên: "Ôi thánh giá tốt lành, ôi thánh giá
đáng mến, xin thánh giá cứu lấy tôi khỏi tay
người thù và đem tôi lên cùng Chúa là Đấng đã
dùng thánh giá mà chuộc tội tôi".
Chúng ta hãy ghi
tạc điều này trong lòng, đó là người nào không
sợ, không trốn tránh đau khổ mà ước ao
đón nhận đau khổ thì chẳng mấy khi gặp
khốn khó. Nếu có lúc phải chịu đau
khổ mà vui mừng sẵn lòng chịu, không phàn nàn kêu trách
thì sẽ đạt được nhiều ích lợi
bởi sự đau khổ. Vì những
đau khổ đời này giúp chúng ta chừa bỏ
tội lỗi, chê chán những thú vui giả tạo ở
đời, trở nên giống Chúa Giêsu và hiệp nhất
với Người, sự khốn khó như tiền
để mua nước thiên đàng. Chúng
ta hãy noi gương các thánh từ xưa đến nay, các
ngài luôn yêu mến thánh giá và ước ao chịu đau
khổ. Khi không có đau khổ thì các ngài phàn nàn,
cố gắng làm các việc lành khác như ăn
chay, hãm mình, phạt xác để bù lại.
Xưa có một thầy dòng chịu
nhiều đau khổ và than thở với Chúa Giêsu:
"Lạy Chúa, con có làm gì đâu mà
sao người ta ghen ghét và bắt bớ con?" Bấy
giờ, Chúa Giêsu hiện đến và phán: "Xưa Cha có
tội gì đâu mà dân Do Thái đóng đinh Cha vào thập giá
trên núi Calvariô?" Thầy dòng nghe lời ấy thì xấu
hổ cúi đầu ăn năn, xin
sẵn lòng chịu mọi sự khốn khó, không dám phàn nàn
kêu trách nữa.
Người theo
thói thế gian và người theo Chúa Giêsu khác nhau ở
điều này, đó là người theo thói thế gian khi
gặp phải đau khổ thì phàn nàn kêu trách, còn
người theo Chúa càng chịu nhiều đau khổ càng
vui mừng tạ ơn Chúa. Người lành
gặp sự khốn khó thì vui mừng như cá gặp
nước. Lẽ ra chúng ta phải
ước ao chịu đau khổ như người hà
tiện khao khát tiền bạc mới phải, vì
đến ngày phán xét chỉ có những người đã
chịu đau khổ cách vững vàng mới không sợ
sự công bằng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu muốn
chúng ta luôn nhớ đến thánh giá, và luôn nhìn xem thánh giá
để biết rằng Người phải chịu
nhiều sự đau khổ và đã chịu chết cho
chúng ta. Vì vậy người Kitô hữu quen đeo thánh
giá trên cổ, treo thánh giá trong nhà, dựng thánh giá ở
đầu làng, trên nóc nhà thờ, trên mộ bia v.v.
Người nào muốn làm giàu, nhiều của cải thì
phải chịu khó làm ăn, cày cấy, buôn bán. Cũng vậy, người nào muốn
được rỗi linh hồn phải vui lòng chịu
sự khốn khó.
Chúa Giêsu
thương ai thì gởi thánh giá đến cho người
đó. Xưa Chúa thương ông Simon,
muốn ông được rỗi linh hồn thì để
ông vác thánh giá đỡ cho Người.
Sự khốn khó đời này
giống như cầu sắt hay cầu đá.
Người đi trên cầu sắt hay cầu đá không
sợ ngã xuống nước và chết đuối.
Cũng vậy, người nào chịu sự gian nan khốn khó ở đời này cho trọn,
chắc chắn được lên thiên đàng.
Người nào đi qua cầu tre, cầu nứa thì
dễ bị nguy hiểm ngã xuống nước chết
đuối, bởi vậy người nào không chịu
sự khốn khó ở đời này hay chịu một
cách bất mãn là liều mình mất linh hồn sa hỏa ngục.
Những
người không muốn chịu đau khổ thật khó
rỗi linh hồn, mà nếu người ấy có
được lên thiên đàng thì cũng phải ở
bậc thấp nhất, nghĩa là xa Chúa và được
ít vinh quang. Còn người chịu nhiều đau khổ
sẽ được ở bậc trên, nghĩa là
được ở gần Chúa và được vinh quang
sáng láng như mặt trời.
Sự khốn khó đời này ví
như giấm, mà bản chất của giấm là chua,
nhưng khi được pha nhiều
dầu vào thì làm giấm bớt chua đi. Chúa pha nhiều dầu vào giấm, đó là
Người luôn yên ủi và thêm sức cho người
sẵn lòng chịu đau khổ vì yêu mến Chúa, nên
người ấy không thấy sự đau khổ là
nặng nề khó chịu bao nhiêu.
Khi chúng ta
được bằng yên, không phải đau khổ nên
thường khô khan, chia trí về những của cải
đời này, còn khi gặp đau khổ thì dễ sốt
sắng, dễ chê bỏ những của cải
đời này. Không phải Thiên Chúa chỉ
thương yêu và yên ủi những người đã
chịu nhiều đau khổ lúc còn sống mà đến
khi gần chết, Người còn yên ủi và cho
người ấy được chết êm ái nhẹ
nhàng.