Nỗi oan Tôma – ĐGM.
Vũ Duy Thống
Đối với phần
đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi
về một thái độ, rất riêng tư nhưng
cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực
mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một
tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm
của niềm tin, cảm tính không nhanh nhạy đủ
hoặc lý trí còn đòi hỏi những chứng cứ,
người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy
ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những
sự kiện tôn giáo, mà theo một số người,
đã rành rành hiển nhiên, người ta vội vàng
đưa vào gia phả “con cháu Tôma”. Kể cũng oan!
Thật ra, đi liền với
danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến
niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho
mối phúc thứ chín, như người ta gọi về
lời Chúa Giêsu kết thúc trang tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ
không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực
trong đời mỗi Kitô hữu.
1. “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Niềm tin của Tôma vào
Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường
trong đó yếu tố trước hết chính là cộng
đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà
Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới
đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ
hội họp vào “ngày thứ nhất trong tuần” cùng với
lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối
cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của
cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một
người.
Nhưng yếu
tố chủ động hơn phải được tìm
thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy…tôi không tin”. Câu nói tự
phát ấy đã trở thành tai tiếng
khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một
kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi
ngờ. Nhưng thực ra, ông là người
thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới
thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức
tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá
nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng
không thể lầm lẫn với người khác.
Nếu hôm trước Tôma
đòi thấy mới tin, thì “tám ngày sau”, qua tiếp xúc cá
nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã dõng dạc tuyên
xưng không phải bằng công thức chung chung như mọi
người nữa, mà bằng một cách rất riêng đậm
màu bản sắc làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục
Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể
đạt được kết quả khi có yếu tố
quyết định chính là hồng ân
Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến
hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo,
nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện,
để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc
ông được dẫn vào một nhận thức mới
mẻ hoàn toàn.
Thay vì “phải thấy mới
tin”, ông đã nhận ra rằng “phải tin mới thấy”
trọn vẹn: thấy Đấng Phục Sinh và con
người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục
Sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả
sẽ trở thành hạnh phúc.
2. “Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Chuyện lòng riêng của
Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn
lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu
hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố
đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa
ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng
đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa
vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ
coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải
đào sâu tìm hiểu thêm. Có biết
đâu tin như thế không còn là tin nữa, mà một cách
nào đó đã trở thành cả tin. Vì
tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất
cả?
Chỉ dựa vào lý trí,
người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn
giới hạn tri thức về thực tại vào tiêu chuẩn
của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy
luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ
chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu
tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại
gần với sự bất tín!
Nếu chỉ
dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một
nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan nguỳ, nhưng thực chất
là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt.
Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề
nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm
lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ
bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải
xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần
xem chặng đường niêm tin của ông như một
kinh điển cho niềm tin đang dấn bước
đi trong cuộc sống. “Đừng cứng lòng!”
phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái
độ không phù hợp, để chẳng những tránh
được khủng hoảng, mà dường như còn
nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần
ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp
gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”.
Cũng từ
nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm
vui trong đức tin của mình. Niềm
vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm
vui của đời tín hữu lại là tin để
được thấy Chúa. Tin như thế
là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau
này các Tông đồ đã quy tụ cho Chúa những kẻ
tin, và những kẻ tin sơ khởi đãvui mừng cử
hành niềm tin của mình một cách sống động,
không những qua nghi thức Phụng Vụ, mà còn qua cách sống
cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn
nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh
chiến thắng.
Nhưng với
kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước.
Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp
niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng
ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của
con người, sao cho chan hoà với nhịp sông cộng
đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một
khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn
phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh
phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải
thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm
nhạt nhoà. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống
riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại
tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là khi phải hy sinh những hạnh phúc
chính đáng “thấy được” để vươn
đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn
khả giác. Quả là vất vả!
Nhưng chính
lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn
tri âm, như một người thầy đã từng trải
nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với
ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức
mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có câu dặn
dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu
bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng
như cũng có lời ước hẹn: tin điều
mình không thấy sẽ được thấy điều
mình tin.
Ngày nay nỗi
oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết
đường mà tránh. Một mình ông chịu
quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng
phải vượt trên những điều nhìn thấy mới
gặp được lối hạnh phúc của niềm tin.
Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng
nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc?
Cùng với mầu nhiệm
đức tin khi bánh rượu được truyền
phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của
Tôma: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Để xin thêm đức tin cho những tấm
lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những
người đang yếu đuối, và xin được
hạnh phúc cho mọi kẻ tin.