Niềm
vui lớn
- William Barclay
Bây giờ chúng
ta đến phần chân
lý sâu nhiệm và ẩn dấu mà Gioan
muốn truyền
đạt khi kể lại câu
chuyện này.
Điều cần nhớ là ông
viết sách
này cho cả người Do
Thái lẫn Hy Lạp. Mục
đích của ông
là kể lại câu
chuyện về Chúa Giêsu
sao cho không xa lạ với người Hy Lạp.
Trước hết, hãy
nhìn từ quan
điểm Do
Thái. Nên nhớ trong những câu
chuyện
đơn giản của Gioan
còn tiềm ẩn một ý nghĩa
sâu nhiệm hơn, mà chỉ những ai
chịu suy
nghĩ mới có thể nhìn
thấy
được.
Trong cả Phúc
Âm, Gioan không hề viết một chi
tiết nào
không cần thiết và vô
nghĩa. Mỗi chi
tiết
đều mang
một ý
nghĩa, và đều hướng tới một
điểm cao
xa hơn.
Có sáu
cái ché đá đựng nước và
theo lệnh của Chúa
Giêsu, nước
đã biến thành
rượu.
Đối với người Do
Thái, con số 7 là
con số đầy
đủ và trọn vẹn. Vậy số 6 là
chưa
đầy
đủ, không
toàn vẹn. Sáu
cái ché đá đựng nước tiêu
biểu cho toàn
thể những cái
bất toàn
của luật và
thay vào đó bằng thứ rượu mới của ân sủng Phúc
Âm. Chúa Giêsu đã đổi những bất toàn của luật ra sự toàn hảo của ân sủng. Liên hệ với
điều này
còn một
điểm
đáng chú ý khác nữa. Sáu cái
ché đựng nước, mỗi cái
chứa từ 80
đến 120
lít. Chúa Giêsu khiến nước lã
trong sáu ché ấy biến thành
rượu ngon,
tất cả phải có từ 500
đến 700
lít rượu. Nêu
lên sự kiện này,
Gioan không chỉ muốn chúng
ta hiểu câu
chuyện theo nghĩa
đen. Vấn
đề ông muốn nêu
lên là khi ân sủng của Chúa
đã đến với loài
người, thì
ân sủng ấy có
đủ để cung cấp cho tất cả. Không
có đám cưới nào
trên đời có thể uống hết sáu,
bảy
trăm lít rượu.
Không một nhu cầu nào
trên thế gian lại làm cạn nguồn ân sủng của Chúa
Cứu Thế. Ân sủng
quang vinh của Chúa
luôn luôn dư tràn.
Gioan
cho chúng ta thấy trong
Chúa Giêsu, những cái
bất toàn
đã trở thành
hoàn toàn, ân sủng thì
vô hạn,
đầy
đủ và dư dật bội phần cho mọi nhu cầu.
Bây giờ hãy
nhìn từ quan
điểm Hy Lạp. Người Hy Lạp
cũng có những chuyện tích
như vậy.
Dionysos là thần rượu của người Hy Lạp.
Pausanias là một tác
giả Hy Lạp
chuyên mô tả xứ sở và các
lễ lạc cổ của
đất nước ông.
Trong phần nói về xứ Elis,
ông đã mô tả một nghi
lễ và niềm tin
thời cổ như sau: “Giữa khu
chợ và
sông Menius là một rạp hát
cũ và đền thờ
Dionysos. Tượng thần ấy do
Praxitels sáng tạo. Không
có thần nào
được dân
Eleans kính trọng cho
bằng Dionysos,
họ bảo là thần ấy
đến dự tiệc cùng
họ tại khu
Thyia, địa
điểm tổ chức lễ cách
thành phố khoảng một dặm. Người ta
đem ba cái ấm lớn vào
đền thờ và các
vị tư tế đặt chúng
tại
đó, trước sự hiện diện của dân
chúng. Các tư tế và những người
được chọn sẽ
đóng dấu niêm
phong cửa
đền. Hôm
sau, mọi người tự do xem
xét các dấu niêm
phong và khi vào đền, họ thấy các ấm
đã đầy rượu. Tôi
không có mặt tại
đó trong kỳ lễ, nhưng những người khả kính nhất trong
xứ Elis
và cả khách
lạ nữa
đều thề rằng: Các
sự kiện có thật như tôi vừa kể”.
Vậy người Hy Lạp
cũng có những câu
chuyện tương tự, nhưng dường như Gioan muốn nói với họ rằng:
“Các bạn có nhiều truyền thuyết về các thần của mình,
đó chỉ là những câu
chuyện
được kể lại và
các bạn
đều biết chúng
không có thật. Chúa
Giêsu đã đến, Ngài
làm những
điều mà
các bạn hằng mơ ước các
thần của các bạn có thể làm
được. Ngài
khiến những
điều các bạn trông
mong thành hiện thực”.
Với người Do
Thái, Gioan nói: “Chúa Giêsu đã đến để đổi sự bất toàn của luật lệ thành sự toàn hảo của ân sủng”. Với người Hy Lạp, ông
bảo:
“Chúa Giêsu đã đến để thực hiện những điều mà các bạn hằng mơ ước, mà
chỉ các thần mới có thể làm
được”.
Bây giờ chúng
ta có thể thấy
điều Gioan
muốn truyền
đạt. Mỗi câu
chuyện không
phải chỉ mô tả
điều Chúa
Giêsu làm một lần rồi chẳng bao
giờ tái diễn, nhưng Ngài vẫn làm
cho đến
đời
đời. Ông
cho chúng ta biết,
không phải về những việc Chúa
Giêsu một lần làm tại xứ
Palestine, mà về những việc Ngài
vẫn làm
thời nay.
Điều ông
muốn chúng
ta thấy ở
đây, không phải chỉ lần Chúa
Giêsu hoá nước trong
các ché đá nào đó thành rượu, nhưng ông muốn chúng
ta nhận thấy rằng, bất cứ lúc
nào Chúa bước vào một
đời sống, thì
đời sống ấy nhận
được một phẩm chất mới, giống như nước lã
đã biến thành
rượu vậy.
Không có Chúa Giêsu thì cuộc đời vốn ứ đọng, phẳng lì và chán ngán. Khi Chúa Giêsu bước vào
đời sống, nó
trở nên sống
động, tươi sáng
và lý thú. Không có Chúa, cuộc đời thật lạnh lẽo, vô vị, đáng chán, với Chúa
Giêsu thì cuộc sống trở nên hấp dẫn,
kỳ diệu và tươi vui.
Khi Sir
Wilfred Grenfell kêu gọi những người tình
nguyện đến công
tác với ông tại
Labrador, ông không hứa cho họ nhiều tiền, nhưng hứa là họ sẽ sử dụng thì
giờ của
đời họ xứng đáng.
Đó là điều Chúa
Giêsu hứa với chúng
ta. Nên nhớ là
Gioan viết sách
này đã 70 năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Ông
đã suy nghĩ, nghiền ngẫm, và hồi tưởng suốt 70
năm dài, cho đến khi
thấy
được các ý
nghĩa mà lúc bấy giờ ông chưa nhận ra.
Khi thuật lại câu
chuyện này, ông
nhớ lại những ngày
đã sống với Chúa
Giêsu, ông nói: “Bất
kỳ Chúa đi đâu, khi nào Chúa bước vào cuộc sống của ai
thì đều giống việc Ngài
hoá nước thành
rượu”. Và
ông muốn nói với chúng
ta: “Nếu bạn muốn
được niềm vui mới, hãy
trở thành
người theo
gót Chúa Giêsu Kitô. Lúc đó, sẽ có những thay đổi trong
cuộc
đời của bạn, như nước biến thành
rượu vậy”.