Lễ
Thánh Gia Thất
Sau biến cố năm
mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem
dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba
ngày. Đức Giêsu đã trở về
Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en- Thiên
Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang
dự phần vào những công việc thân thiết quen
thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang
tự mặc lấy hình người, đang sống
cuộc đời chúng ta. Sự
thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều
điều quý báu về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa đã bước vào một
căn nhà tầm thường và gia đình tầm
thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến
thế gian, chắc Ngài phải đến với tư
cách một nhà vua, đến sống trong cung điện
nguy nga của bậc đế vương đầy
thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở
Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác,
nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như
người đương thời (Lc 8,44),
Ngài ăn uống như người đồng
hương (mt 9,19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở,
trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên
môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu
bằng những từ ngữ thông thường của
nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư
tưởng cùa người đồng thời và lối
văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm,
những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe
họ nói: “Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?” Ngài dùng
những thành ngữ của họ, dầu có nhiều
khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ
như để định vị trí cho một
người không những không nghe theo những lời khuyên
nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của
Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: “Ngươi hãy coi nó
như một dân ngoại hay một người thu
thuế” (Mt 18,17). Trong
mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với
những người đến để được
cứu rỗi. Ngài thật sự ở
giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng
ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như
vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần
đủ cả việc con người được
sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của
giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu thơ.
2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công
việc của loài người mà không xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã
không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm
thầm sống như một người dân
thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia
đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng
đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt
đầu giảng dạy: “Bởi đâu ông ta
được khôn ngoan và làm được những phép
lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em
của ông không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa
sao? Và chị em của ông không phải đều là bà
con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi
đâu ông ta được như thế?” (Mt 13,54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu
đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức
đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu
hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới
mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc
để kiếm đủ sống của chúng ta; Ngài
biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách
hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả
những khó khăn trong cuộc sống chung
trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn
đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo
Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài
người phạm tội trong vườn Địa
đàng: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán
mới có đủ mà ăn” (St 3,19),
nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông
thường được khoác lên một ánh hào quang khi có
bàn tay Thiên Chúa chạm vào.
3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một
Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời
sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta
có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người,
có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình
dửng dưng được với hết mọi
sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau
đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng
trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức
chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài
người. Ngài cảm thấy đau
đớn cho loài người và với loài người.
Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm
của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế
nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho
chúng ta. Thật vậy, như lời Thánh Gioan: “Thiên Chúa
đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người, thì
khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (Ga 3,16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã
xả diệt thân mình “trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài”
vì Ngài “không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em
Ngài” (Dt 2,17.11). Tình yêu
đòi phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của
Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài
đẩy mạnh đến cùng mức độ nên
giống họ (Ga 13,13).
Cécil Northcott trong quyển “Chúa hiển hiện
đời nay” thuật lại một cuộc thảo
luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại
diện nhiều quốc gia trên thế giới: “Một
đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về
nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người
khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ
trại sinh Phi châu: “Maria, ở nước cô thì cô làm
thế nào?” Maria trả lời: “Chúng tôi không có hội
truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về
đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc
hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong
làng. Khi dân làng thấy cuộc sống
Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành
Kitô hữu”.
4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong
trắng và thánh thiện giữa loài người.
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: “Ai
thấy Ta là thấy Cha” thì trong thời gian sống tại
Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy
mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong
mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có
một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc
sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao
giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng
việc làm, bằng cử chỉ với những tội
lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài
thấy ở đó khởi đầu để
đồng bào Ngài ghét Ngài.