Người chứng thứ
nhất
Ga
12,24-26
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án
tử hình mà không được nói một lời
để bào chữa mình. Người tuyên án
là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan
này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và
bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là
Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa
sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng
số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu
thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người
mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được
ba năm và đã từng cho đi theo
để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã
can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy
Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và
điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo
toán lính và trong suốt quảng đường không
ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục
biết đường tránh hỏa ngục hầu
hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ
và một số thương gia người Bồ Đào
Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì
không. Người thanh niên cường tráng này
dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ
đạo nên sẽ phải chết để nêu
gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà
vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới
thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm.
Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh
đến nỗi cha Đắc Lộ theo
không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng
trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến
đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung
quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội
trưởng cho phép cha Đắc Lộ được
đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ
mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và
kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy
từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha
Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha
khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp
được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và
không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút
lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến
phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim
anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy
thế, một người lính khác lấy mã tấu
chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm
một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi
cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành
quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa
các vết máu. Cha Đắc Lộ
nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một
báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu
buôn đưa về Macao
chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân,
cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời
lưu danh. (theo “Người
chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các
Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến
cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu
rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời
đại đang tiến dần vào thế kỷ 21,
những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ
điển ngày xưa và việc bắt đạo của
các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì
hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn
trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ
bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần
được loại bỏ trong các bộ luật hình
sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử
đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám
chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống
của con người, nhất là những người
nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung
là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo
con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ
thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo
Hội địa phương lập danh mục các vị
tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những
người tử đạo, - thường là âm thầm,
họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì
đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không
chỉ có những người đổ máu vì Đức
Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những
nhà truyền giáo, những người tuyên xưng
đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh
nữ, những người kết hôn, góa bụa và
trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn
lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam
được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai
vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic
Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh,
cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền
Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một
thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm
chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết
của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại
miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong
số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa
bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17
tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối
năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo
trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội
ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là
Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống.
Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt
Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã
được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng
biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính
mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại
đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và
trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn
Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến
với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài
người đến nỗi đã ban Con Một
Người và Người Con Một ấy trước
khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho
từng môn đệ. Kế đến Ngài
đã dành những lời tâm huyết để nhắn
nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như
hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi
để sinh được nhiều bông hạt lúa
mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò
các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy
thân thiện đối với cả thầy lẫn trò:
Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh
mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả
để trở nên môn đệ đích thực của
Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa
đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng
đã trả để mang lại nhiều hoa trái là
nhiều người nhận biết Chúa Kitô để
được ơn cứu độ. Đúng như
lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị
Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô
hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng
cần những người dám sống đức tin, dám
làm chứng cho Chúa trước mặt người
đời. Sống đức tin là một loại
tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh
mạng sống. Mỗi ngày chúng ta
thường vị đặt trước những
chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y
hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa.
Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút
đức tin. Tiền bạc, tiện nghi,
khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những
bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng
ta cũng phải đối diện. Ước gì
chúng ta không để mất đức tin đã
được mua bằng giá máu của bao vị Tử
Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển
giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê
hương Việt Nam chúng ta.