Hy vọng có giúp chúng ta thấy Đức Kitô
không?
Thời kỳ thánh Marco chép Phúc Âm, loại văn
chương mệnh danh là văn chương mạc
khải được những giới Do Thái nào đó
ưa chuộng, coi là hợp thời trang. Có những
tập sách được lưu huỳnh, thường
gồm những đoạn mô tả những tai họa
thảm khốc, nhắm mục đích mạc thị
về Đấng Cứu Thế sẽ quang lâm, để
lãnh đạo Israel dân Người. Hai thắc mắc: Ngay
chính Đức Kitô có dùng thứ ngôn ngữ mạc khải
đó không trong những bài giảng về ngày tận
thế? Trong chừng mực nào thánh Marco
đã sử dụng loại văn thể đó? Điều ấy không quan hệ lắm ở
đây. Ta ghi nhận rằng không nên hiểu những
đoạn trong bài giảng của Chúa theo
nghĩa đen và cụ thể. Người ta có quyền
nghĩ rằng Chúa Giêsu loan báo trực tiếp thảm
họa năm 70 sẽ tàn phá Giêrusalem. Nhưng
quan trọng hơn nữa là cần khai triển ý nghĩa thiêng
liêng bài đọc hôm nay.
Chúng ta đứng trước
một vấn đề. Thật vậy, nếu bài
đọc cho ta thấy ẩn hiện bóng dáng một
thảm họa sẽ xảy đến lúc chung cục
trong vũ trụ hữu hình, thì ta cũng có thể nhờ
Lời Chúa trong Phúc Âm theo thánh Lc soi sáng để hiểu
thêm về đoạn Phúc Âm hôm nay: Con Người quang lâm
có sẽ tìm thấy đức tin trên trái đất không?
Chúng ta đối diện với
một bí nhiệm đáng cho ta khiếp sợ. Mặt
trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, các tinh
tú từ trời sa xuống, tất
cả ám chỉ những gì diễn ra ngày cánh chung trong lĩnh
vực đức tin? Chúng ta ao ước phỏng đoán
tương lai Giáo Hội như là một sự tiến
dần của nhân loại đến ánh sáng. Như
vậy, vào ngày tận cùng, tương lai đó sẽ
kết liễu trong một thảm họa mịt mùng
ư? Trong viễn tượng đó, làm
thế nào để bảo toàn niềm hy vọng? Để dễ dàng trả lời, chúng ta đặt
câu hỏi rõ hơn. Hy vọng của
chúng ta phải hướng về mục tiêu nào? Hy vọng thúc giục chúng ta phải có thái
độ thực tiễn nào?
1) Hy vọng của chúng ta phải hướng về
sự hiển trị của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, trong ngày sau hết. Người ta sẽ thấy Con
Người đến với quyền năng cao cả và
vinh quang. Những kẻ nào làm cho ánh sáng đức tin ra
tối tăm sẽ bị khai trừ, không được
hiệp thông vinh hiển với Đức Kitô. Trái lại,
những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu, những
kẻ ‘được tuyển chọn’ sẽ
được thu họp từ bốn phương,
từ tận cùng mặt đất đến tận cùng
chân trời, để được hiển trị
với Chúa. Do đó, bất kể những thăng
trầm trong lịch sử loài người, và cả trong
lịch sử Giáo Hội, chúng ta hãy đặt niềm hy
vọng của chúng ta trên sự kiện Đức Giêsu Kitô,
Chúa tể vũ trụ. Người tác
động để nhân loại nhìn nhận Người
là tâm điểm vũ trụ. Ngày
tận cùng, sự kiện cơ bản ấy sẽ
hiển hiện trong khải hoàn, và sẽ là niềm hân hoan
của những kẻ được chọn.
2) Về thực thực tế, chúng ta nắm
chắc được phần nào của sự hy
vọng? Chúng ta có trách nhiệm xây dựng
tương lai nào? Chúng ta xây dựng
tương lai chúng ta và tham dự tương lai Giáo
Hội trên sự thật hiện hữu nào? Thưa, trên điều sau. Trong
con người chúng ta, một thế giới phải cáo
chung để Chúa hiện đến. Thế
giới phải chấm dứt đó là tập thể gồm
nhiều lầm lạc, những ảo tưởng,
những ích kỷ, những tội lỗi của chúng ta.
Điều chúng ta cần quan tâm không phải là những
việc lành phúc đức, những nhân đức, những
chiến thắng trong việc tông đồ của chúng ta,
nhưng chính là niềm hy vọng và ước nguyện
Chúa sẽ hiển hiện trong chúng ta, xuyên qua chúng ta,
nhờ vào sức cường nhiệt của đức
tin và đức ái chúng ta lúc này.
3) Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ
đại của mọi thời. Trong lúc ông
vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm
thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn
nghe thấy. Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn
điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe một nốt nào. Một số người nào đó nói những
thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ.
Họ tin rằng Beethoven đang sống trong
âm nhạc của mình. Shakespeare thì ở
trong vở kịch của mình và Edison
ở trong phát minh của mình. Beethoven biết
tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ
nghe nhạc ở trên trời”. Ông ta nói
rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không
chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm
nhạc của vị thầy vĩ
đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã
được đặc ân hiệp
nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca
vui mừng vô tận. Shakespeare biết
rằng tất cả những lời trong tác phẩm
của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt
với Lời đời đời được nói
bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa. Edison liều
lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ
ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị
kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng
chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel
đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp
đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ
ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo
ngoại quốc. Nhiều người Do
Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt
cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng
môt sứ điệp hy vọng cho những người
sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ
chiếu sáng… những người đó sẽ
được dẫn tới sự công chính và những
người công chính sẽ chiếu sáng như những vì
sao mãi mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát
triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh
sáng của sự sống đời đời,
đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban
xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài
đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết
sống lại.
Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng
tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ
đến trong đám mây với quyền năng lớn lao
và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ
từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa.
Chúng ta đã hầu như không hiểu
lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày
hôm nay. Đó là tất cả những gì mà chúng ta
muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên
trời mới biết được.
Trong lúc chúng ta không giống
như những người Israel
đang chịu đau khổ trên miền đất
của mình bởi sự chiếm đóng của
người Syrie. Chúng ta đang bị bao
quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết,
đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân
phẩm của đời sống con người. Nó
tấn công chính tình bạn con người khi họ rất
dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu
đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm
dứt cuộc sống trong tuổi già. Họ loại
bỏ những người hầu như cần tới
sự giàu có của quê hương chúng ta để cho
họ được sống sót: là những kẻ không
nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ
cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin
Công giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo
Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít
nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta
bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh
hưởng một cách tinh tế, bởi những giá
trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham
lam. Để kháng cự lại
những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm
về lời hứa sự sống đời đời
cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành.
Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể
là một lời nài xin và một lời hứa của
sự sống đời đời sẽ là động
cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức
Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc
ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự
công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên
trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì
sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.