Tinh thần
truyền giáo (Lc 18,1-8)
(Trích trong ‘Với cả tâm tình’ – ĐGM.
Vũ Duy Thống)
“Không
biết khi Con Người đến, liệu còn gặp
thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay
được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi
một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình
Người. Cũng có thể đó là câu
hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu
cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu
hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích
cực mở ra cho lối sống đức tin lạc
quan. Và biết đâu, câu hỏi đó
lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu
cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng
đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu
cho việc truyền giáo, theo tinh thần
của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn
chứa một lời giải đáp. Đó là: để
lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần
của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền
giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng
sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt
động.
Nói đến truyền giáo người ta
thường nghĩ là phải dấn thân làm
việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều,
người ấy lại càng được xem là nhà
truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng
đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ
nhận những kết quả lớn lao trong lịch
sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang
lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những
hoạt động ấy còn là cả một tinh thần
cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà
truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân
Chúa.
Thiếu
cầu nguyện, hoạt động sẽ không
kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang
một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh
Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động
có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa
với náo động nếu không muốn nói là khua
động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn
ào. Quên cầu nguyện, hoạt
động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên
đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó.
Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu
nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là
một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức,
nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội
Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú
bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu
nguyện là linh hồn của hoạt động
truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt
động một sức sống kín múc tận nguồn
sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất
kể lại một hình ảnh sống động cho
thấy mối tương liên không thể tách rời
giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc
Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê
không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần
thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng
ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của
Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và
hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh
Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ
Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính
vào đầu tháng mười này cũng là một hình
ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu
nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm
khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền
giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu
nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao
giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo
Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền
giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời
bươn chải giảng giải đạo Chúa
đến tận miền xa Châu Á.
Bản
chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói
được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi
truyền giáo.
Bốn phần năm dân số địa cầu chưa
biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã
đành, nhưng ngay cả một phần năm đã
biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo
nữa. Xem như thế, truyền giáo
vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức
là sự sống còn của Giáo Hội. Và
tinh thần truyền giáo ấy một khi được
hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và
hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô
đến, Người vẫn thấy niềm tin trên
mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy
được thể hiện khi thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện.
Được
nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với
hoạt động cây truyền giáo nhất định
sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến
yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa,
hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất
nước nhì phân tam cần tứ giống”, đó là kinh
nghiệm trồng cây. Song một cây lành
như cây truyền giáo phải biết chứng minh
bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh
thần truyền giáo cũng phải được chứng
minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên
tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên
gan chịu đựng ngay cả những điều
xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận
tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận
tiện là khi chí bền
truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để
mất mình trong hoạt động đến nỗi quên
đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là
đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng
to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo
những thành công trước mắt để sau này khỏi
phải trả giá đắng cay trắng tay thất
vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết
đâu lối sống của ông thẩm phán bạo
ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng
coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương
đồng với quan niệm háo thắng hoặc
đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung
cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý
tưởng, nên cố mà đưa người ta vào
bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép
người ta về bằng cả chinh phạt nữa
(thập tự chinh)?
Xem ra
kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền
giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn
đề.
Khi không
thuận tiện là khi chí bền
truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng
những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta
biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh
luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động
phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì
chí bền như một mạch điện tự
động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại
những giới hạn ấy bằng một thao thức
phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như
hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt
động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông
một phương tiện truyền giáo bằng
gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức
tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô
của mình.
Điều
đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt,
mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua
những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất
thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà
góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến
quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét
minh định minh oan, ở đây như một cổ võ
sống động cho chí kiên bền.
Và
dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không
(bài đọc thứ hai), chí truyền giáo
thiết tưởng cũng là biểu tỏ của
niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ
một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha
nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu
độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi
Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên
mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân
mình Người.
Ước
mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho
cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế
Giới Truyền Giáo hôm nay.
|