Nghi thức bên ngoài
Có một thầy tiến sĩ luật Do
Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được
ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc
sống. Thời gian trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối
cùng người ta phải mời một y sĩ
đến khám. Y sĩ bảo rằng: cơ thể ông ta
bị thiếu nước. Thế nhưng đám lính canh
lại thắc mắc không hiểu vì sao vị Rabbi này
lại có thể thiếu nước, vì khẩu phần
nước tương đối đầy đủ.
Và thế là họ kín đáo quan sát ông ta.
Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ
thể ông ta thiếu nước vì ông ta đã dùng phần
lớn số nước được cung cấp
để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi
cầu nguyện và dùng bữa.
Câu chuyện trên cho thấy các nhà lãnh
đạo tôn giáo Do Thái đã bực bội như thế
nào, khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng
chịu rửa tay theo đúng tập tục tiền nhân.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy
người Do Thái có hai thứ luật. Luật thành văn
và luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa
cổ lại vừa quan trọng vì nó căn cứ trên
những sách của Cựu ước và đôi khi còn
được gọi là luật Maisen. Một số luật
này mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì
rất chung chung giống như những kiểu mẫu
phải theo hơn là lề luật. Trong một thời
gian dài, người Do Thái bằng lòng với những
kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời
sống vì thấy nó thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm
trước Công nguyên, một nhóm chuyên nghiên cứu về
luật đã tạo được một ảnh
hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy những
điều luật tổng quát quá sơ sài, mơ hồ
cần phải được soạn thảo lại.
Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm
những luật truyền khẩu. Rất nhiều
người Do Thái muốn bắt chước các tư
tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi
thức. Chẳng hạn: theo luật thành văn thì mọi
tư tế đều phải rửa tay trước khi
vào nơi thánh trong đền thờ, mục đích là
tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng
đáng thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng cũng
bắt chước rửa tay trước khi cầu
nguyện và khi dùng bữa.
Vào thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn
kẽ thứ luật truyền khẩu này, để
rồi tôn giáo dần dần thái hóa và biến thành một hoạt
động đơn thuần chỉ là chu toàn những
nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên
ngoài là đẹp lòng Chúa, bằng không thì phạm tội và
những kẻ tuân giữ được coi là
người đạo đức. Họ có thể căm
ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn
tuân giữ việc rửa tay và những nghi thức khác
về sự thanh tẩy.
Họ giống như một người
Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ thù,
chợt nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta
xuống ngựa, quì gối cầu nguyện theo luật
định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục
đuổi theo kẻ thù.
Từ đó chúng ta đi tới kết
luận: đừng đồng hóa tôn giáo với việc
chu toàn những hành vi bên ngoài như đi lễ,
đọc kinh, xưng tội… Tự chúng chưa bảo
đảm rằng chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do
rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả
những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không
phải vì yêu thương. Điều quan trọng không
phải là việc chúng ta làm mà chính là tình yêu trong trái tim thúc
đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất
đầy kiêu căng thì mọi nghi thức bên ngoài
trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm
cho chúng ta trở nên thánh thiện trước mặt Chúa. Bởi
vì như lời Chúa đã quở trách người Do Thái:
dân này thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì
lại xa Ta.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo
không phải là làm việc này việc kia, mà chính là lý do thúc
đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành
động của chúng ta phải được xuất
phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu
người, thì mới thực sự có giá trị.
|