HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH THỂ.
1. Thánh Thể là bữa tiệc.
Thánh lễ
trong đó có Thánh Thể là bữa tiệc mà Đức
Giêsu đáp ứng cho các môn đệ Ngài. Tất
cả chúng ta đều đến dự bữa tiệc
ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể
ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đều được
nuôi sống và được vinh dự, bởi vì ở
đây mỗi người cho là một vinh dự.
Ở đây mọi người trở nên bình đẳng,
vì tất cả chúng ta là những người nghèo về
mặt thiêng liêng nên tất cả đều
được ăn uống no nê. Ngoài
ra, tất cả những người cùng tham dự bàn
tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây
tình nghĩa, vì cùng chia sẻ một thức ăn
và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúa đã
tự hiến mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và
mời gọi chúng ta đến ăn, tại sao chúng ta
không đến dự ?
Truyện
: Người mẹ hy sinh để con sống.
Vào cuối thế kỷ
trước, bên Anh có phong trào di dân sang lập nghiệp
tại Úc châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở
người di cư, có một bà mẹ goá chồng, mang theo một đứa con thơ đang bú
sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần,
thì một cơn bão bất ngờ ập tới làm
biển động dữ dội, con thuyền bị sóng
đánh tơi tả và cột buồm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đênh trên
mặt biển trong nhiều ngày. Lương
thực trên tầu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết
đói và bị quăng xuống biển. Vào một
buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chết đói, đang khi
đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ
này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt
đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay
cho dòng sữa. Bà đã hy sinh chết để cho con bà
được sống !
Về sau đứa bé
lớn lên đã trở thành một dân biểu nổi
tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ và biết ơn
người mẹ thân thương và một ngày kia, ông
đã đứng trên diễn đàn quốc hội, kể
lại câu chuyện đau thương cuộc đời
mình, và đề nghị Quốc hội chọn một
ngày trong năm làm ngày để nhắc nhở con cái
tỏ lòng biết ơn đối với mẹ mình. Đó là nguồn gốc của Ngày Quốc tế
các Bà Mẹ hiện nay.
3. Hiệu quả việc tham dự Thánh Thể.
Đức Giêsu đã giãi
bầy tâm sự với các môn đệ :”Ai
ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta
ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Khi chúng ta rước
mình và máu thánh Chúa thì chúng ta được kết hợp
với Ngài như Ngài ở trong chúng ta vậy. Một
cuộc kết hợp giao thân như cành nho với thân nho
(Ga 15,4-7), một cuộc trao đổi
tình thương có một không hai, chỉ có trong phép Thánh
Thể.
Để minh hoạ cho
sự kết hợp trên, tôi xin đưa ra hình ảnh
cụ thể : Đây là tủ sách
của tôi, trong đó có một quyển sách mà tôi
chưa hề đọc. Dù cho quyển sách
đó có qúi và bổ ích đến bao nhiêu, nhưng nếu
tôi không đọc đến thì nó vẫn ở ngoài tôi.
Nhưng một ngày kia, tôi lấy nó ra
đọc, tôi cảm thấy hồi hộp, lôi cuốn và
rung cảm. Câu truyện đó thôi thúc tôi,
những dòng chữ quan trọng được ghi khắc
vào tâm trí tôi. Bây giờ lúc nào cần, tôi
có thể lấy những điều kỳ diệu đó
từ bên trong, hồi tưởng lại, suy gẫm nó
bồi dưỡng tâm trí mình. Trước kia cuốn sách đó vốn ở ngoài tôi,
nằm trên kệ sách. Bây giờ, nó đã thâm
nhập vào tôi, tôi có thể lấy nó để nuôi mình.
Những kinh nghiệm và từng trải
trọng đại trong đời cũng vậy, chúng
vẫn ở ngoài ta cho đến khi chúng ta nhận lấy
cho riêng mình.
Với Chúa
Giêsu cũng vậy. Bao lâu Ngài còn là một nhân vật
trong sách, thì Ngài vẫn ở ngoài ta, nhưng một khi Ngài
đã vào lòng chúng ta, thì Ngài ở trong chúng ta, chúng ta có
thể nuôi dưỡng bằng sự sống, sức
mạnh và sinh động mà Ngài ban cho. Đức Giêsu
dạy chúng ta phải uống máu Ngài, điều ấy
Ngài muốn nói “Các ngươi phải tiếp thu sự sống của ta, đưa vào bên
trong các ngươi. Phải thôi nghĩ về Ta như
một nhân vật trong sách hay một đề tài thảo
luận thần học, mà phải nhận lấy Ta vào bên
trong các ngươi, và các ngươi vào trong Ta, lúc ấy,
các ngươi sẽ có sự sống, và đó là sự
thật”. Đó là điều Đức Giêsu muốn
nói khi Ngài đề cập đến
việc chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Khi
Đức Giêsu dạy chúng ta ăn thịt và uống máu
Ngài là dạy chúng ta hãy lấy nhân
tính của Ngài để nuôi dưỡng tâm trí và linh
hồn mình, hãy bồi bổ lại đời sống mình
bằng sự sống của Ngài cho đến khi chúng ta
được thấm nhuần, tràn ngập, đầy
dẫy sự sống của Thiên Chúa (Trần văn Hàm,
Tin mừng Chúa nhật, năm B, tr 185).
Muốn thực sự
gặp gỡ Đức Kitô, muốn được
kết hợp chặt chẽ với Ngài, có lẽ chúng ta
phải có chút duyên như
người ta thường nói :
Hữu duyên vạn lý
năng tương ngộ,
Vô duyên
đối diện bất tương phùng.
Muốn gặp Chúa
kết hiệp nên một với Ngài thì phải có “duyên”
với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng
cảm hay một sự giống nhau nào đấy với
Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hoà tan
với nhau được, vì hóa tính của hai chất không
giống nhau. Hai chất phải có những hoá tính căn
bản giống nhau mới hoà tan với nhau
được. Cũng vậy, “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết
hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều
tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp
gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người
có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người,
hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà
gặp được Chúa, dẫu họ có rước
lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác
định:”Ai không yêu thương, thì không biết
(=kinh nghirệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga
4,8) ; “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa
ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12) ; “Nếu ai có
của cải thế gian mà thấy anh em mình lâm cảnh
túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm
sao Thiên Chúa ở trong người ấy được?” (JKN).
Để kết thúc tôi
xin đưa ra đây câu truyện có vẻ hơi
“kỳ kỳ”, không biết có tương xứng không,
nhưng cũng có thể giúp chúng ta suy nghĩ, may ra có
thể kiếm được một vài tư
tưởng nào đó để áp dụng vào cuộc
sống mình :
Truyện
: Thánh Gióng.
Thời vua Hùng
Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa
bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết
ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ
nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều
lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi
khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu
nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng
nhìn mẹ bật lên tiếng nói :
-
Mẹ gọi sứ
giả vào đây cho con.
Sứ giả vào nhà
thấy bé liền hỏi:
-
Bé ơi, bé bị tật
như thế, mời ta vào làm gì ?
Bé dõng dạc nói :
-
Về bảo vua đúc
một con ngựa sắt, một mũ sắt đưa
đến cho ta đi đánh giặc Ân.
Rồi bé bảo mẹ
thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu,
bé ăn hết bấy nhiêu. Hết
gạo, mẹ kêu làng xã mang gạo, khoai, bánh rượu,
trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết.
Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng
lồ, mặc áo giáp, câm gươm, hét lớn tiếng :
- Ta là tướng nhà
trời.
Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như
bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc. Gióng
chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến
lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên
Vương và lập đền thở kỷ niệm
ở làng quê (Vũ khắc Nghiêm).
Câu chuyện có vẻ thần thoại, nhưng cũng
có ý nghĩa. Nếu sứ giả của nhà vua cùng bà
mẹ và dân làng khinh chê đứa bé tàn tật, cố
chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công góp của một
chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà
Trời đến cứu dân cứu nước. May
thay, họ đã khiêm tốn nghe lời đứa bé ba
tuổi tàn tật và họ đã được
tướng nhà trời cứu sống.
Người Do thái đã không học bài học đó.
Họ khinh chê Đức Giêsu, không tin lời Ngài vì Ngài
chỉ là con bác thợ mộc Giuse và cũng là người
ở Nazareth, theo họ, tại Nazareth có cái gì hay đâu !
Ngày nay, người ta cũng chẳng khác gì người Do
thái xưa. Đức Giêsu đã bảo họ :”Ai có tai
để nghe thì hãy nghe”, nhưng đâu người ta
có nghe, nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt
giống gieo bên vệ đường chim trời ăn
mất vì họ từ chối :”Người đi
thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo
cưới vợ. Họ khinh thường lời nói
của vua trời đất, họ sẽ bị tru
diệt”(Mt 22,5-7).
Cuối cùng, chúng ta hãy đọc lại lời nói
của Đức Giáo hoàng Phaolô VI trong thông điệp
Mysterium Fidei nói về việc tôn sùng phép Thánh Thể :
”Trong khi nhớ đến sự cao cả và lòng
thương lạ lùng của Chúa Giêsu, Đấng đã
ban sự sồng rất qúi giá của mình để làm giá
cứu chuộc chúng ta và là Đấng đã ban thịt
mình cho chúng ta ăn, các tín hữu hãy tin vững chắc và
kính thờ sốt sắng mầu nhiệm Mình Máu thánh
Người với một niềm kính trọng và
đạo đức khả dĩ cho phép họ
được năng rước lấy bánh siêu thể
đó. Ước chi Người thực là đời
sống của linh hồn họ, và là sức khoẻ
vĩnh viễn của tinh thần họ ; ước chi,
sau khi được tăng cường bởi nghị
lực của Người, từ cuộc hành trình gian
khổ đời này dần dà họ tới nơi quê
trời, để được ăn ở đó bánh
không còn che phủ của các thiên thần : bánh mà bây giờ
họ được ăn dưới những
tấm màn thánh che phủ”.
Lm Giuse Đinh
lập Liễm
|