VietCatholic News (29 May 2009 18:35)
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau việc Chúa Con đến trong thế gian mà chúng ta đã tưởng niệm từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, lễ Ngũ Tuần khai mở kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
• Cv 2: 1-11 Sự kiện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, tụ họp trong phòng Tiệc Ly, được thánh Lu-ca tường thuật trong sách Công Vụ. Biến cố nầy rất thân thuộc với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.
• 1Cr 12: 3-13 Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân ban làm chứng về hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi một tín hữu lãnh nhận những ân ban của Chúa Thánh Thần, vì chỉ có một Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
• Ga 10: 19-23 Tin Mừng Gioan tường thuật tiền Ngũ Tuần, ngay từ ngày Phục Sinh. Đức Giê-su, hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân ban của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy; nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố từ đó Giáo Hội khai sinh. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11)
Theo thánh Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài trước khi rời bỏ họ: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Chắc hẳn là phòng Tiệc Ly, căn phòng mà Đức Giê-su đã dùng bữa sau cùng với các ông, và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể; chính cũng ở căn phòng đó mà, dù mọi cửa đã đóng kín, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh; chính cũng ở căn phòng đó mà Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông.
1. Mọi người đang tề tựu ở một nơi.
Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu ở một nơi” là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”.
Họ cùng nhau chuyên cần cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do thái được gọi lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
2. Lễ Ngũ Tuần.
Được gọi “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ nầy được cử hành vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, ngày lễ kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Ít-ra-en đều đã chịu một tiến trình tâm linh hóa: chúng đã trải qua từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập, lễ Lều tưởng niệm cuộc lưu lại trong Sa-mạc; sau cùng, lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc làm mới lại giao ước hằng năm. Vào ngày lễ nầy, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
3. Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly.
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra một cách long trọng. Biến cố nầy được tác giả mô tả theo một văn phong rất gần với phép ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, những biểu tượng được mượn ở nơi trận cuồng phong đi theo những cuộc thần hiện. Trong Do thái giáo có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài, chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ trong khuôn khổ của những cuộc thần hiện Cựu Ước. Thêm nữa, những hình ảnh truyền thống đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở văn chương khải huyền nầy, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân muôn nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày chung cuộc. Thánh Lu-ca liên kết những hình ảnh nầy trực tiếp hơn đến ân ban các ngôn ngữ mà các Tông Đồ nhận được. Kỷ nguyên Ki tô giáo thật sự được loan báo bởi cùng những dấu chỉ với kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng truyền thống Kinh Sư đã suy niệm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được.
Và làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29).
Như vậy có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả cho sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai bộ tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp. Nhưng những khác biệt thì sâu xa.
4. Phép rửa trong Thần Khí.
“Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho các anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11).
Các Tông Đồ đều nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki tô giáo nầy.
Những biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố của phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay muôn dân đều được mời gọi hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân nói các ngôn ngữ, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về”. Một danh sách liệt kê dài các dân tộc nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), ở đó sự lộn xộn của ngôn ngữ và sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Nầy đây Giáo Hội của Đức Ki tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng hiệp nhất được phục hồi.
Một ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, có thể nhận thấy ngay, là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài; họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục quyền Đấng chịu đóng đinh và làm chứng Ngài đã sống lại.
5. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a.
Như chúng ta đã ghi nhận trên, ở nơi cụm từ: “mọi người đang tề tựu” bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần không phải là không quan trọng: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí thinh lặng của căn phòng Na-da-rét: Thiên Chúa kín đáo đến ở giữa nhân loại. Đây là một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của nhiệm thể Con Mẹ mà từ nay Đức Ma-ri-a đảm nhận.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những phụ nữ nầy không phải chịu dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ; các bà làm chứng theo một cách khác; các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la “tông đồ của các tông đồ”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-sô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào năm 50-52.
Cộng đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm: đây là đối tượng của thư thứ nhất. Giáo đoàn nầy sống ở giữa thế giới lương dân và trong thành phố rộng mở trước những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là trước những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu nầy không phải không có tác động đến cách ăn nếp ở của các tín hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh riêng biệt của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật; tổ chức còn non yếu và chưa đầy đủ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu nầy. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều; sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là một sự kiện.
Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho nhiều đặc sủng khác nhau, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế thánh nhân đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ nầy.
1. Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng: Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki tô hữu dưới dấu chỉ của Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa (Đức Ki tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) hoạt động trong mọi người”.
2. Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng: lợi ích chung.
Thánh Tông Đồ đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là lợi ích của cộng đoàn, nghĩa là nếu không vì lợi ích cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh.
Tiếp đó, việc so sánh thân thể với Đức Ki tô rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki tô làm cho Giáo Hội nên một như thế ấy, bất chấp vô số thành viên.
Nguyên tắc hiệp nhất, chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất và ban muôn ân sủng cho cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Sự sống Thánh Thần phun trào trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng nầy rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong một trích dẫn dài hơn và trong quan điểm của biến cố Phục Sinh (xin xem thêm chú giải Chúa Nhật II Phục Sinh).
Hôm nay, bản văn nầy được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan.: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Điều nầy không mâu thuẩn với biến cố mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng là một bổ túc thần học: “Giáo Hội khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, thậm chí nếu những ân huệ Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy.
Chúng ta sẽ nhấn mạnh vài nét đặc trưng mà trong bài chú giải của Chúa Nhật II Phục Sinh chúng ta đã không gợi lên.
1. Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su trao gởi sứ mạng tiếp tục công việc của Ngài cho cộng đoàn nhỏ bé nầy, “nhóm còn lại” nầy hình thành Giáo Hội Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Giáo Hội khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những giáo huấn của bản văn nầy.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Ngài thổi sinh khí vào con người, và con người trở nên một sinh vật. Động từ mà thánh Gioan dùng ở đây không được gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng chính xác là động từ của bản Bảy Mươi, bản dịch Hy Lạp, của sách Sáng Thế để chỉ cử chỉ của Đấng Sáng Tạo (St 2: 7).
Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng để mô tả cuộc hồi sinh của những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế cốt là đánh dấu một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành một hạt nhân của nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
2. Hiệp nhất giữa biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần.
Thánh ký luôn luôn liên kết sự tuôn trào Chúa Thánh Thần với biến cố Phục Sinh. Ông đã diễn tả tư tưởng nầy khi Đức Giê-su công bố về “những dòng nước hằng sống” vào ngày lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại nầy, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là lời dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt bên cạnh nhau: biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày lễ nầy đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, Tin Mừng khẳng định sự liên đới của hai biến cố nầy trong một viễn cảnh mới.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
|