Hồi Ký Tị Nạn Đường Bộ Của Một Gia Đình, Qua Cơn Bão Dữ(2)
§ Kim Hà
4. Sống lo âu ở Phnom Penh:
Qua bao nhiêu gian khổ, chúng tôi đến được Phnom Penh. Bọn đẫn đường cho gia đình tôi vào ở trong một gia đình người Miên và rồi chúng lại trốn đi, để mặc gia đình chúng tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người.
Giờ phút ấy, chúng tôi chỉ biết quỳ xuống cầu nguyện để xin Chúa và Đức Mẹ Maria cứu nguy mà thôi. Chúa lại thương nên chồng tôi tìm được hai tên dẫn đường đang ngồi xe xích lô để chuồn về Việt Nam. Khi chồng tôi bắt chúng về lại nhà trọ thì chúng nói thẳng là chúng không biết đường đi đến Thái Lan. Lúc đó, chúng tôi mới biết là chúng đã gài cho lính Công an bắt chúng tôi khi còn ở phạm vi của tỉnh Soài Riêng.
Chúng tôi làm dữ với bọn dẫn đường và dọa sẽ ra công an tố cáo chúng lừa gạt chúng tôi. Cuối cùng, chúng phải trả lại gần một nửa số tiền mà chúng đã lấy của chúng tôi.
Sau đó, chúng dẫn gia đình tôi gặp một người dẫn đường khác. Họ dắt chúng tôi đến một nhà khác để đợi chờ. Trong suốt thời gian chờ đợi, lòng vợ chồng tôi bồn chồn và lo lắng như ngồi trên lửa.
5. Đi xe lửa đến Pursak và Battambang:
Rồi khoảng một tuần sau, anh chàng dẫn đường tên Sán mới dắt chúng tôi đi tiếp để đến biên giới Thái Lan. Lần này, anh ta đưa chúng tôi đến nhà ga và bảo chúng tôi leo lên xe lửa. Xe lửa đầy những người. Người ta ngồi trong các toa xe. Rất nhiều người khác thì ngồi lắt lẻo trên các mui xe lửa. Còn gia đình chúng tôi thì phải cố gắng leo lên trên một cái toa ở sát toa đầu xe lửa, nơi chất đầy củi để nhét vào lò, hầu làm cho xe lửa chạy.
Đây là một cực hình cho gia đình tôi vì các tàn lửa bay ra tấp vào quần áo chúng tôi và lửa châm vào da thịt chúng tôi, để lại những vết cháy trên da thịt. Lại nữa, toa này không có mui vì là toa chở củi, nên cơn nắng làm nóng khủng khiếp. Lại thêm cái đói và khát hành hạ gia đình chúng tôi. Lúc ấy, tôi cứ cầu nguyện để xin Chúa cho tôi được chết phứt cho xong kiếp đời đau khổ.
Vợ chồng tôi và các con ngồi chỉ cách nhau có 2 thước nhưng chỉ biết im lặng mà nhìn nhau một cách đau đớn. Lòng chúng tôi xót xa đến đứt ruột vì thương các con nhỏ dại mà phải chịu khổ. Cả gia đình tôi chịu cảnh khát nước đến cháy cổ nhưng không biết làm cách nào mà có nước uống vì xe lửa cứ chạy mãi.
Cuối cùng, tôi đánh bạo móc ra 5 đồng bạc Việt Nam để đưa cho những người ngồi gần, rồi ra dấu chỉ vào những trái bắp luộc và một ổ bánh mì đang nằm trong các chiếc giỏ hàng của họ. Họ bèn đưa cho gia đình tôi 5 trái bắp luộc và 1 ổ bánh mì. Thế là giải quyết được việc ăn. Rồi tôi lại ra dấu xin họ cho nước uống. Chị hàng xóm mở bi-đông rót ra một chút nước đen ngòm. Tôi vội cầm chiếc nắp bi-đông ấy để cho bé Kim, đứa con nhỏ nhất của tôi. Còn lại thì cả gia đình đều chịu trận khát khô cổ.
Trong cái nắng gắt của mùa hè nhiệt đới, chúng tôi ngồi im lặng như chết mà không trao đổi với nhau một câu nói vì sợ người ta biết mình là người Việt Nam vượt biên.
Đến 9 giờ tối, xe lửa mới ngừng trước ga Pursak. Chúng tôi mất trọn một ngày mà mới đi được có nửa đường.
Tôi hôm ấy, chúng tôi được anh Sán dắt đi ăn. Sau đó, anh chàng dặn chúng tôi hãy ngủ ngay phía đường rầy để mai đi tiếp.
Vợ chồng tôi rất run sợ vì nghĩ rằng anh ta có thể bỏ rơi gia đình mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, tôi phải lôi hết áo quần trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm xuống. Chung quanh tôi, mọi người đều nói chuyện vui vẻ, chỉ có gia đình tôi là im lặng, sợ hãi và buồn bã.
Nền đất đá cứng và gồ ghề làm cho chúng tôi đau lưng, lại thêm cái nóng của mặt đất bốc lên làm cho chúng tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ được.
Sáng hôm sau, anh Sán dắt chúng tôi lên xe lửa đi tiếp. Lại thêm một ngày nóng và khát. Suốt bảy tiếng đồng hồ ngồi phơi trên xe lửa không nóc, chúng tôi mệt muốn xỉu.
Khoảng 3 giờ chiếu thì xe lửa vào đến địa phận tỉnh Battambang. Sau một hồi tìm kiếm, anh Sán cho chúng tôi vào một căn nhà trống trơn. Nơi đây có một lu nước. Không ai bảo ai, cả gia đình tôi nhào đến lu nước, rồi người dùng gáo, kẻ dùng tay để múc nước và uống ừng ực.
Vừa uống xong, tôi bủn rủn tay chân và đầu óc quay cuồng. Tôi cảm thấy chóng mặt và tim đập mạnh. Tôi nghĩ mình sẽ chết ngay tại đó. Chồng con tôi cuống quít cạo gió cho tôi. Tôi cố dằn cơn xúc động, nhưng nước mắt cứ chảy ra dào dạt. Tôi dặn anh Vĩnh, chồng tôi rằng:
“Anh ơi, nếu rủi em có chết tại đây thì xin anh cố gắng dắt các con đi tiếp cho đến đích, vì chỉ còn có 60 cây số nữa thôi. Xin anh đừng lo gì cho em, đừng tính chuyện chôn cất gì cả. Mình không thể bỏ cuộc một cách dễ dàng. Mình đã tốn quá nhiều công sức rồi!”
Nghe lời trăn trối của tôi, cả gia đình tôi khóc thổn thức. Vừa sợ cảnh chia ly, vừa sợ người thân chết, vừa sợ bị người dẫn đường bỏ rơi, lòng chúng tôi đau đớn, xót xa.
Khoảng 4 giờ 30 chiều, anh Sán trở lại. Anh cho gia đình ăn cơm và đưa chúng tôi đi ra biên giới bằng 2 chiếc xe mô tô thồ.
Cứ trước mỗi trạm gác, những người tài xế xe lại ra hiệu cho gia đình tôi xuống xe đi bộ qua trạm gác. Anh Vĩnh luôn luôn phải đi trước để thoát thân, vì nếu vợ con bị chận lại thì anh sẽ không bị bắt. Đàn bà, con trẻ thì có bị bắt cũng không lâu, còn đàn ông thì ở tù không có ngày về.
6. Trong khu rừng vắng gần biên giới Thái-Campuchia với nỗi lo âu:
Qua biết bao gian nan, chúng tôi thoát nạn qua các trạm gác. Đến tối, anh Sán cho chúng tôi vào một khu rừng và bảo rằng anh ấy sẽ trở lại vào sáng ngày hôm sau.
Cơn mệt buổi trưa lại đến. Tôi lập lại lời dặn dò và trăn trối. Chồng con tôi lại hốt hoảng vì sợ tôi chết tại đấy. Tôi cố gắng trấn an và nhất quyết dặn chống tôi phải vượt bỏ tất cả những ủy mị, đau buồn để đưa các con đến nơi, nếu như tôi có chết dọc đường, bỏ cuộc trên con đường đi tìm tự do.
Lúc ấy tôi cảm thấy Thiên Chúa thật gần. Gia đình chúng tôi cầu nguyện như là đang nói chuyện với Ngài. Chúng tôi lại cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Chúng tôi khấn xin các thánh, các linh hồn ông bà, cha mẹ chồng đã khuất để xin sự che chở và bảo vệ.
Chỉ có những lúc như thế, chúng tôi mới cảm thấy thân phận con người thật nhỏ bé giữa trùng vây của nguy hiểm và lo âu hãi hùng. Có trải qua những phút âu lo đó, tôi mới thấy cái hạnh phúc là có một người bạn đường bên cạnh, tôi mới cảm thấy Thiên Chúa thật linh thiêng, sự sống thật đáng quý, tình cảm gia đình thật cao đẹp và ý nghĩa của hai chữ tự do thật cao cả.
Suốt đêm hôm ấy, gia đình tôi được ở trong một cái lán giữa chốn rừng hoang. Cái lán này còn sơ sài hơn một túp lều. Vợ chồng tôi lo lắng vì sợ bị bỏ rơi và sợ cướp giết mình hay bị rắn cắn. Chúng tôi lại lôi quần áo trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm. Hai vợ chồng tôi lại nằm theo hình chữ V, hai đầu quay gần nhau, bốn đứa con nằm giữa. Tôi nằm yên lặng, thần kinh căng thẳng nên không chợp mắt vì quá sức sợ hãi.
Tôi nhìn lên bầu trời, mở mắt thật to để tìm một chùm sao hình chữ T. là tên tắt của thánh nữ Têrêsa, thánh quan thầy của tôi để xin thánh nữ cầu bầu cho gia đình tôi. Tôi xin Đức Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu bầu cho gia đình được ơn bình an, thoát khỏi tai nạn, nhất là nạn cướp trong rừng biên giới.
Đem đen như mực, tiếng côn trùng kêu rả rích. Vợ chồng con cái nằm im, chả ai buồn nói với ai một lời. Một sự bất an bao trùm. Thần kinh căng thẳng. Chúng tôi lắng nghe để xem có tiếng ai đi đâu đó không. Giữa rừng cây um tùm, ví thử bọn cướp có đến giết gia đình để cướp của thì cũng chả ai mà biết, và nếu gia đình tôi có hét lên thì cũng chả ai nghe được mà cứu.
Trời bắt đầu lạnh, sương xuống mỗi lúc một nhiều. Nhìn bầy con nhỏ vô tội đang nằm lăn lóc giữa sương gió, tim tôi nhói đau như bị ai bóp. Giữa lúc ấy, mạng sống con người còn nhỏ nhoi hơn một con giun, con dế. Cứ mỗi lần có tiếng động là vợ chồng tôi ngồi bật dậy để quan sát và nghe ngóng. Cứ thế, chúng tôi nằm chờ sáng trong muôn ngàn nỗi âu lo, sợ hãi và trong niềm hối hận vì đã hành xác con cái trong cơn đói khát, khổ cực.
7. Bị cướp và bị bỏ rơi trên đường đi:
Sáng hôm sau, khi thức dậy, chúng tôi thấy có hai người đàn ông người Cambodia đến gần. Không hỏi ý chúng tôi mà họ tự ý lục lọi đồ đạc trong giỏ của chúng tôi. Sau khi chẳng kiếm được cái gì mà họ muốn lấy, họ đề nghị chúng tôi đi tắm mát. Đó là để khi chúng tôi xuống hồ ao thi họ lục lấy vàng hay tiền trong quần áo chúng tôi.
Vợ chồng chúng tôi biết là gặp bọn người bất lương nên tôi bàn với chồng tôi là anh Vĩnh nên đi chậm với hai người ấy để cản đường, còn tôi thì lùa các con chạy trước. Nhưng để có thể biết hướng đi ra khỏi rừng, chúng tôi phải đi theo hướng bọn họ sẽ đi. Khi thấy con đường đất đỏ trải dài trước mắt, lòng chúng tôi mừng khấp khởi vì biết là đến nơi an toàn hơn.
Một lúc sau, tôi thấy bóng một đứa bé ngồi trên lưng trâu, tôi quay nhìn anh Vĩnh và nói to:
“Chuẩn bị chạy!”
Rồi tôi nói với các con:
“Chạy ra theo đường kia, các con ơi! Chạy lẹ kẻo bọn cướp kia bắt được mình đấy!”
Thế là như bầy ong vỡ tổ, các con tôi ùa ra chạy thật lẹ, tôi cũng ì ạch chạy theo các con.
Trong lúc ấy, anh Vĩnh bị hai tên người Miên kèm sát để mong cướp của và vàng bạc. Tôi lại quay ngược đầu về phía sau kêu chồng tôi:
“Chạy theo em, anh ơi!”
Lúc ấy, chồng tôi phải hết sức khéo léo để giựt lại cái giỏ đồ và thùng đựng nước. Anh cũng cố tình trì hoãn lại để mẹ con tôi có thêm thì giờ mà chạy thoát. Thế là cả gia đình cắm đầu chạy như ma đuổi.
Trời đã về chiều mà chúng tôi không có nơi ăn, chốn ở. Lúc đó khoảng 2, 3 giờ chiều, tôi bèn bàn với chồng tôi:
“Anh ơi, có lẽ em và các con sẽ trở về lại Việt Nam. Em ra trình diện với bộ đội Việt Nam để trở về nhà, tiền mình còn ít qúa, chắc không đủ cho cả gia đình mình đi đến Thái Lan đâu. Còn lại số tiền này, anh hãy giữ lấy mà tìm đường đi tiếp. Chứ mình đi như vầy hoài, tiền gần cạn hết rồi, biết tìm ai mà đi tiếp?”
Khi nghĩ đến chuyện chia tay, kẻ ở người đi, lòng chúng tôi ngậm ngùi và tan nát. Thế là chúng tôi bị bỏ rơi lần thứ hai rồi.
Vừa đau khổ, tôi vừa cầu nguyện. Không một lối thoát, ngôn ngữ không đủ để xin người bản xứ cứu giúp hay dẫn đường cho gia đình mình đến biên giới. Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vấn đề nan giải hiện ra. Tôi ước ao được chết ngay lúc đó, chết chung với chồng và các con, để khỏi phải lo âu và khắc khoải nữa, để khỏi phải chịu cảnh đói khát dưới cơn nắng khủng khiếp ấy nữa.
8. Trong tuyệt vọng thì tìm ra đường sống.
Khi chúng tôi đi ra đường thì gặp một người phụ nữ Miên chừng 25 tuổi, chị ấy hỏi chúng tôi rằng : “Việt Nam?” Tôi buồn bã gật đầu. Chị ấy chỉ ra phía trước, ra dấu hai tay sẽ bị còng và nói liên tiếp. Tôi chỉ hiểu rằng chị bảo chúng tôi coi chừng ra ngoài ấy sẽ bị bộ đội Việt Nam bắt còng tay và cho vào tù.
Biết chị là người có lòng tốt, tôi kể lể bằng tiếng Việt Nam về nỗi khổ của mình. Không biết chị có hiểu gì không nhưng chị ấy dắt chúng tôi về căn lều của gia đình chị. Chúng tôi vui mừng vì thấy một lu nước. Vừa xin phép chị, gia đình tôi vừa nhào đến thi nhau uống nước. Dù nước rất đục nhưng có nước còn hơn không. Cơn khát đã hành hạ chúng tôi từ lúc sáng đến giờ.
Câu chuyện thì dài lắm, nhưng kết quả là gia đình chị ấy chịu hướng dẫn chúng tôi đi qua biên giới Thái với điều kiện là chúng tôi phải trả hết số tiền bằng chiếc nhẫn kim cương mà tôi đã dấu trong cạp quần và một số tiền mặt khác.
Đêm hôm ấy, gia đình tôi được tắm mát nơi cái giếng cạn của gia đình chị Miên. Đêm ấy, vợ chồng tôi được bình an vì biết rằng mình đang ở trong tay một gia đình tốt lành.
Ngày hôm sau đó, gia đình chị cho chúng tôi lên ba chiếc xe bò trong một đoàn xe bò, rồi họ trả tiền cho ba người chủ xe bò. Từ đó trở đi, họ và chúng tôi không còn gặp nhau nữa vì gia đình tôi nay thuộc quyền của ba người chủ xe bò. Đến khi khám phá ra là họ bỏ mình cho những người chủ xe bò, vợ chồng tôi hoảng hốt và lo âu trên suốt cuộc hành trình ấy. Giữa đường đi, chúng tôi lại bị cướp thêm một lần nữa. Anh Vĩnh ngồi chiếc xe bò thứ hai, tôi và hai con gái ngồi trên xe bò thứ ba, còn hai con trai của chúng tôi ngồi trên xe bò thứ bốn.
Cuộc hành trình qua biên giới đầy gian khổ vì đói khát và sợ hãi. Ở vùng biên giới này, nhiều người tị nạn Việt Nam bị bộ đội Việt Nam bắt giữ và gửi về Việt Nam để bị giam trong các nhà tù. Cũng tại rừng biên giới này mà nhiều phụ nữ Việt Nam bị hãm hiếp bới bọn lính Miên, tức là lực lượng Para, một thứ linh chống chính phủ Phnom Penh. Tại nơi đó, nhiều người tị nạn bị giết chết vì lằn đạn pháo, vì bị lính Miên nghi ngờ, hay vì bị rắn cắn.
Sau đây, tôi xin được kể lại ngày thứ 15 trong cuộc hành trình vượt biên của gia đình chúng tôi:
(còn tiếp)
Kim Hà
|