CHÚA NHẬT IV MÙA
CHAY
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Cả ba bài đọc của Phụng
Vụ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh kế hoạch
của Thiên Chúa, Đấng, vì tình yêu, muốn cứu
độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng
tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.
2Sb 36: 14-16, 19-22
Bài đọc I cho
chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến
cố và theo đuổi ý định
của Ngài qua những thăng trầm của Lịch
Sử.
Ep 2:
4-10
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín
hữu Ê-phê-sô gợi lên rằng Thiên Chúa giàu lòng xót
thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên
đã hoạch định chương trình cứu
độ chúng ta bởi và trong Đức Ki
tô.
Ga 3:
14-21
Trong đoạn trích
Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su khẳng định
rằng: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn
đời".
BÀI ĐỌC I
2Sb 36: 14-16,
19-22
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch
sử của dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban
đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa
sụp đổ (587 trước Công
Nguyên).
Bài đọc I là phần
cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn
trích nầy nhắc nhở cho chúng ta những nguyên nhân sâu
xa của tai họa và tấn thảm
kịch mà Giê-ru-sa-lem đã sống vào năm 587 khủng
khiếp trước Công Nguyên: Đền Thờ và kinh
thành bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị
lưu đày, lãnh thổ bị tàn
phá.
1. Tội của dân Ngài:
Tác giả đã viết lại những
biến cố nầy một thời gian rất lâu sau
nầy vào cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế
kỷ thứ ba sau Công Nguyên, nhưng ông đọc lại
Lịch Sử thánh trong ánh sáng của những viễn
cảnh thần học. Đối với ông, những
thăng trầm mà dân Ít-ra-en kinh qua gặp thấy lời
giải thích ở nơi sự trung thành hay bất trung
của dân Chúa chọn đối với Thiên
Chúa.
Vả lại, dưới triều vua
Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu
tượng tràn lan khắp xứ. Sự
trừng phạt không thể nào tránh khỏi; nhưng tác
giả cho thấy làm thế nào Thiên Chúa "đã
kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo
họ không ngừng" trước khi trừng
phạt dân Ngài.
"Nhưng họ cứ nhạo báng các
sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời
Người và chê cười các ngôn sứ". Ở những lời nầy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a
và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên, nhưng
được ám chỉ rất rõ. Quả thật,
vua Giơ-hô-gia-kim đã xé cuốn sách ghi lại những
sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a thành từng mảnh,
và các chức sắc tư tế đã nhục mạ ông,
tống giam ông, vân vân. Còn ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa đã
cảnh báo ông: "Chính Ta sai ngươi đến
với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản
nghịch đang nổi loạn chống lại Ta"
(Ed 2: 3). Lúc đó, cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa giáng xuống trên dân.
2. Ơn tha thứ của Thiên Chúa:
Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ
hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha
thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách,
như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Ngôn
sứ Giê-rê-mi-a đã tuyên sấm rằng cuộc lưu
đày sẽ kéo dài bảy mươi năm. Vì
lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài
muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối
những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa
với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý
tưởng căn bản của tác giả hai sách Sử
Biên nầy. Trước tiên, sách Sử Biên
quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy
mươi năm tang thương. Cuộc tái
thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ được
tường thuật trong sách Ét-ra tiếp theo
sau. Quả thật, phần cuối của
đoạn trích nầy là phần đầu của sách
Ét-ra, được lập lại ở đây để
đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn
chứa chan hy vọng.
Chúng ta lưu ý rằng tác
giả hoàn toàn chú ý đến Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của
dân bất trung bất nghĩa "làm nhơ nhuốc
Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại
Giê-ru-sa-lem". Nếu Ngài sai phái các
sứ giả của Ngài, chính "vì Ngài thương
đến nơi Ngài ngự". Hành vi đầu tiên của đạo quân
Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối
cùng, khi thử thách qua đi, vua Ba-tư, Ki-rô, tuyên bố "xây
một đền thờ kính Người tại
Giê-ru-sa-lem".
Mầu nhiệm của
Đền Thờ làm phấn chấn tác giả của hai
sách Sử Biên. Vào thời đại của ông,
Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất
nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en
đã được tổ chức theo
thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên
cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy
nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng
tôn giáo, phải là một cộng đồng thánh thiện
và trung tín: khởi đi từ cuộc sống của
một dân tộc đến việc thiết lập
một vương quốc Thiên Chúa. Đây là một bài
học lớn lao mà tác giả, vừa
sử gia vừa thần học gia, của hai sách Sử
Biên muốn nhắc nhở cho những người
đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II
Ep 2: 4-10
Thánh Phao-lô viết bức thư
nầy từ Rô-ma ở đó thánh nhân bị giam cầm vào
những năm 61-63. Thật ra thánh nhân viết bức thư nầy không chỉ cho Giáo Đoàn
Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình
được lưu hành đến các Giáo Đoàn miền
Tiểu Á.
Bức thư nầy
biểu thị một trong những đỉnh cao tư
tưởng của vị sứ đồ. Thư
là một tổng đề tích luỹ những vấn
đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở
nơi khác rồi, nhưng ở đây được bàn
đến một cách sâu rộng và nghiêm túc.
Chủ đề chính yếu của
đoạn trích hôm nay chính là: ý định của Thiên Chúa
liên quan đến ơn cứu độ của nhân
loại đã được thực hiện nơi
Đức Giê-su Ki tô. Dù đoạn trích
nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây
vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
1. Quyền Tối Thượng
của Chúa Cha.
Chính luôn luôn ở nơi Chúa Cha
mà thánh Phao-lô quy chiếu công trình cứu độ và lòng
cảm tạ tri ân. Đây là nét đặc trưng
của đoạn trích thư nầy
ở đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt
động từ. Chính Chúa Cha giàu lòng xót thương và
rất mực yêu thương chúng ta, Đấng đã
biểu lộ tình thương của Ngài đối
với chúng ta trong Đức Ki tô, Đấng đã cho
chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự
trị với Đức Ki tô trên cõi trời, Đấng
đã tõ cho chúng ta thấy ân huệ dồi dào phong phú
của Ngài…
2. Chúa Cha Giàu lòng xót thương.
Diễn ngữ: "Giàu lòng xót
thương" đã trở thành chủ đề cho
thông điệp của cố Giáo Hoàng Gio-an
Phao-lô Đệ Nhị, và đó cũng là nhan đề
của bức thông điệp nầy: "Đức
Chúa Cha giàu lòng xót thương". Đức
Thánh Cha nhắc nhớ rằng lòng xót thương có
nghĩa "quyền năng đặc thù của tình yêu
còn mạnh hơn tội lỗi". Chính lòng
thương xót của Thiên Chúa là từ then chốt của
ý định cứu độ của Ngài, vì chướng
ngại phải vượt qua là tội lỗi của con
người. Ân ban tuyệt vời
của lòng xót thương của Thiên Chúa, chính là
Đức Giê-su Ki tô, nhờ Ngài con người "chết
vì phạm tội" cũng được sống
lại với Ngài. Với vài lời, thánh nhân diễn
tả chính xác thành quả mà ơn Cứu Chuộc đem
đến: khả năng gặp lại cuộc sống
siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.
3. Cuộc sống tương
lai:
Còn hơn một bản văn,
đoạn trích hôm nay là một bài chiêm niệm. Ở đây cuộc sống tương lai
được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân
diễn tả ở thì hiện tại niềm hy vọng
tương lai của các Ki tô hữu: "cùng ngự
trị với Đức Giê-su trên cõi trời". Ân huệ dồi dào phong phú của
Người sẽ được "tỏ cho các
thế hệ mai sau", nghĩa là một sự liên
tục bất tận không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư
tưởng sâu xa nhất của thánh nhân trong những suy
niệm của những ngày tháng bị giam cầm?
Phải chăng đây là kỷ niệm của
người đã chiêm niệm trong những giây phút
xuất thần "cho đến tầng trời
thứ bảy" ?
Phải chăng kẻ tử tù nghĩ
đến cái chết sắp đến gần của
mình? Hay đơn giản hơn, đây không phải
niềm xác tín thần học của vị sứ
đồ, niềm xác tín đã đem lại cho thánh nhân
những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối
với thánh Phao-lô, cuộc sống đầy ân sủng, chính là khởi sự của cõi
đời đời rồi.
4. Đức tin, việc làm và ân
sủng.
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn
cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác
họa ở đây. Việc làm của chúng ta
tự nó không thể nào xứng đáng với ơn
cứu độ nầy. Ơn cứu độ
của chúng ta chính là ân ban nhưng không
của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn
mạnh những sắc thái ngữ nghĩa, việc làm
của chúng ta tác sinh hiệu quả vì Đức Ki tô làm
cho sống; chính nhờ trung gian của Đức Giê-su mà
việc làm của chúng ta có thể thực sự là tốt
và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy nhờ lòng
nhận hậu vô lượng hải hà của Thiên Chúa
đã sắp đặt mọi sự để cứu
độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki tô,
Đấng trung gian duy nhất, chúng ta mới có thể
được có giá trị và được sống đời
đời, tóm lại đó là ý nghĩa của đoạn
trích hôm nay.
TIN MỪNG Ga 3: 14-21
Đoạn Tin Mừng Gio-an hôm nay
được trích từ phần cuối của cuộc
trò chuyện giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô,
một thủ lãnh của người Do thái, thuộc nhóm
Biệt Phái, đến gặp Ngài ban đêm.
1. Bối cảnh:
Với đoạn trích nầy,
cuộc nói chuyện không còn hình thức của cuộc
đối thoại nữa, nhân vật Ni-cô-đê-mô không còn
xuất hiện nữa. Diễn từ của
Đức Giê-su ngỏ lời ở bên kia
người biệt phái thiện cảm nầy,
đến với tất cả những ai có cùng một
sự lựa chọn phải làm: "tin hay không tin",
chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối. Quả
thật, hậu cảnh của "phiên tòa"
lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ vụ án
xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế
gian.
2. Tình yêu của Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Những dòng nầy gợi lên rất
mạnh tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con. Giáo
hội nhận ra ở nơi "tình yêu của Cha và
Con" tuôn tràn cho tất cả mọi người
nầy cách thế diễn tả Chúa Thánh Thần,
Đấng "nhiệm xuất từ Cha và Con",
Đấng chuyển thông và lan tỏa cuộc sống
thần linh. Vì thế, bản văn này
cũng được chọn để cử hành lễ
Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi.
3. Tấn thảm kịch của sự chọn
lựa:
Ơn cứu độ nghĩa
là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ
dự phần vào của sống của chính Thiên Chúa.
Ơn cứu độ này được dâng
hiến cho con người nhưng phụ thuộc vào câu
trả lời của họ. Đó là tấn thảm
kịch: tấn thảm kịch của sự chọn
lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đức tin
và sự từ chối. Phần sau cùng
nầy cô đọng Thần Học Gio-an.
Trong hậu cảnh ẩn hiện thái
độ của Do thái giáo không nhận biết Đức
Ki tô: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng".
Nhưng sự chọn được
đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy
đức tin không phải là một điều dể dàng,
việc ông Ni-cô-đê-mô ngần ngại là một bằng
chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin
Mừng Gio-an, có một khía cạnh lạc quan hay
đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua
việc chọn sống theo sự
thật: "Những ai sống theo sự thật, thì
đến cùng ánh sáng".
Cuối cùng, một chủ đề khác
của thần học Gio-an: Đức Giê-su đã
đến chỉ như Đấng Cứu Độ
chứ không một quan tòa. Chính con người tự kết
án mình nếu họ từ chối ánh
sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận
biết ở nơi Đức Giê-su Con Một của Thiên
Chúa.
Lm.
Ignatiô Hồ Thông
|