TÍN HỮU
SỐNG LẠI THẾ NÀO
VÀ THÂN XÁC
PHỤC SINH CỦA HỌ RA SAO?
Sau khi
chứng minh cho một số tín hữu Côrintô không tin vào
sự phục sinh của những người đã
chết thấy rằng kitô hữu sẽ được
Chúa cho sống lại, trong phần hai chương 15
thư thứ I gửi giáo đoàn này, thánh Phaolô khai
triển đề tài các tín hữu sống lại thế
nào và thân xác phục sinh của họ ra sao. Do thái giáo
thời đó tin rằng cuộc sống phục sinh
của các tín hữu tiếp tục cuộc sống
hiện tại trên trần gian này và miêu tả nó với các
sắc thái rất là ”duy vật”. Chính vì vậy các tín
hữu duy linh Côrintô lại càng ngờ vực cuộc
sống phục sinh hơn nữa. Thánh Phaolô trả lời
cho vấn nạn trên bằng cách khẳng định
rằng các tín hữu đã sống lại có một thân xác
thật, nhưng là một thân xác đã hoàn toàn
được biến đổi (cc. 36-49). Tiếp
đến thánh nhân khai triển thêm đề tài chiến
thắng cái chết (cc. 50-58) và khuyên tín hữu hãy dấn
thân sống kiên trung và tiến tới trong lòng tin.
Để
minh giải cho sự thật liên quan tới t́inh
trạng sống mới hoàn toàn được biến
đổi của thân xác phục sinh, thánh Phaolô dùng một
vài hình ảnh quen thuộc trong thiên nhiên. Trước
hết là hình ảnh hạt lúa mì. Thánh nhân nêu bật sự
biến đổi phẩm chất giữa hạt lúa mì bé
nhỏ được gieo vào lòng đất, mục
rữa, chết đi để nẩy mầm trở thành
cây lúa, và cây lúa lớn lên và đơm bông kết hạt.
Giữa hai thực tại hạt lúa và cây lúa trổ bông là
thực tại thê thảm của cái chết, của
sự rữa nát thối mục đi. Sự biến
đổ đó không phải là một tiến trình binh
thường mà là một rạn nứt, đổ vỡ,
thương đau. Thân xác con người phải bị
hủy hoại rữa nát đi để trở thành
một thụ tạo mới của Thiên Chúa.
Thí dụ
thứ hai nhấn mạnh trên sự khác biệt giữa
thịt xác của các sinh vật: thịt xác của con
người và thịt xác của thú vật, và giữa loài
vật thịt xác của thú vật cũng khác với
thịt xác của cá biển và chim trời. Và quan sát
thứ ba liên quan tới sự khác biệt giữa thân xác
trần gian và thân xác thiên linh. Ở đây sự sáng láng
rạng ngời là tiêu chuẩn phân biệt. Trong
trường hợp sự sống lại của thân xác
con người cũng thế. Có sự khác biệt hoàn toàn
giữa thân xác của tín hữu khi còn sống trên trần
gian này và thân xác phục sinh của họ sau cái chết.
Cũng như hạt giống chết rữa đi
để trở thành cây lúa trổ bông, thân xác con
người cũng rữa nát đi để trở thành
một thân xác phục sinh hoàn toàn được biến
đổi: thân xác của một thụ tạo mới (cc.
42-44a). Có sự đối chọi giữa hai thực
tại: một bên là thân xác có thể rữa nát, bên kia là
thân xác không thể rữa nát nữa; một bên là thân xác
đáng khinh chê, bên kia là thân xác rạng ngời vinh quang;
một bên là thân xác yếu đuối, bên kia là thân xác
mạnh mẽ; một bên là thân xác tâm lý, bên kia là thân xác
thần thiêng. Nhìn chung có thể kết luận rằng
thánh Phaolô nhấn mạnh trên tình trạng rữa nát, mau
qua, hạn hẹp bất toàn của thân xác trên trần gian
này, và đề cao sự toàn thiện của thân xác
phục sinh. Cùng một thân xác ấy nhưng trong hai
trạng thái hoàn toàn khác biệt nhau. Sự khác biệt
triệt để ấy được ghi dấu
bằng cái chết, tức sự gãy đổ toàn diện
đánh dấu sự biến đổi sâu thẳm ấy.
Trong các câu
44-49 thánh Phaolô cho thấy sự khác biệt cuối cùng:
đó là t́nh trạng đối chọi giữa thân xác
tâm lý và thân xác thiên linh. Thánh nhân khai triển điểm này
bằng cách dùng lại hình ảnh kiểu mẫu của
Adam thứ nhất và Adam thứ hai để chú giải
các trang đầu của Kinh Thánh. Khi đối chọi
trình thuật chương 1 với trình thuật
chương 2 sách Sáng Thế, người ta nghĩ
rằng Adam, con người được tạo dựng
nên giống h́nh ảnh của Thiên Chúa, là mẫu
người lý tưởng của nhân loại, trong khi Adam,
con người được dựng nên bằng
đất bụi, là mẫu người trần gian
phải chết của lịch sử. Thánh Phaolô cũng
lấy nguồn cảm hứng từ đó, nhưng
với nét độc đáo riêng biệt. Thánh nhân ám chỉ
thực tại cụ thể của Đức Giêsu đã
chết và phục sinh. Và dĩ nhiên là cái khung của suy
tư thần học do thái bị nổ tung. Đức
Kitô mới chính là Adam toàn vẹn, là con người ”thiên
linh” là con người ”thiên quốc”, đối ngḥch
với Adam, con người ”tâm lý” và ”trần gian”. Nhưng
Người không đại diện cho con người tiên
khởi và lý tưởng, mà là con người của
thời sau hết, vị cứu chuộc nhân loại ḷich
sử tội lỗi.
Nhưng
đâu là ý nghĩa của của phản đề: ”tâm
lý-thiên linh”, ”trần gian-thiên quốc”? Cả hai đều
ám chỉ con người sống động, nhưng con
người thứ nhất là con người của
cuộc sống tự nhiên, giòn mỏng, và hư nát; con
người thứ hai là con người của cuộc
sống siêu nhiên và thiên linh, quyền năng và không tàn phai.
Trong ngôn ngữ của truyền thống kinh thánh thần
khí không đồng nghĩa với không vật chất, mà
có nghĩa là sức mạnh, quyền năng, sự sinh
động, sự sáng tạo. Thánh Phaolô di chuyển trong
phạm trù này với tất cả sự tự nhiên, vì
thế thánh nhân nói tới thân xác ”thiên linh”. Tuy nhiên, ở
đây cần ghi nhận thêm rằng theo viễn
tượng lịch sử-cứu độ trong tư
tưởng của thánh nhân, con người tâm lý, con
người tự nhiên là con người làm mồi cho
tội lỗi, cho cái chết cuối cùng, và con
người ”thiên linh” là con người đã
được quyền lực của Thần Khí giải
phóng và cứu chuộc. Nghĩa là thánh Phaolô di chuyển trên
lãnh vực nhân chủng học hiện sinh một cách chính
xác và nghiêm chỉnh.
Cả hai
loại người nói trên đều có một
người mẫu: Adam là mẫu của con người
”tâm lý”, nô lệ của tội lỗi và bị định
đoạt phải chết đời đời;
Đức Kitô phục sinh là mẫu của con người
”thiên linh”, được giải thoát và cứu độ
( x. Rm 5,12tt.). Nhưng có một khác biệt giữa hai bên:
đó là sự đồng hình đồng dạng của
nhân loại tội lỗi với Adam, mẫu người
tiêu cực đã hoàn tất, trong khi sự đồng hình
đồng dạng của nhân loại được
cứu độ với Đức Kitô, mẫu
người tích cực, sẽ thành toàn trong tương lai:
”Như chúng ta đã mang trong mình hình ảnh của con người
trần gian thế nào, thì cũng sẽ mang trong mình hình
ảnh của con người thiên quốc như thế”
(c. 49). Chuyện đó xảy ra khi nào và ra sao? Theo văn
bản trong sự sống lại, Đức Kitô là con
người ”thiên linh”, vì đã phục sinh (c. 20) Nhưng
Ngài cũng là nguyên lý tích cực sự sống lại mai
sau của các tín hữu: Ngài là ”bản vị thiên linh”, vì là
Đấng tạo dựng sự sống. Nhưng chính vì
Đức Kitô phục sinh là Đấng tạo dựng ra
sự sống ”thiên linh” theo h́nh ảnh của Ngài, nên
Ngài là nguyên do mẫu mực của các kẻ
được sống lại.
Còn một
điểm khác cần xác định ở đây: đó là
từ các câu 42-44 sang các câu 45-49 thánh Phaolô cũng thay
đổi từ vựng. Từ sự đối chọi
giữa thân xác ”tâm lý” và thân xác ”thiên linh” thánh Phaolô chuyển
sang sự đối chọi giữa con người ”tâm
lý” và con người ”thiên linh”, và dùng phạm trù này cho
Adam-Kitô cũng như cho nhân loại tội lỗi.
Điểm lưu ý này rất qúy báu vì nó cho chúng ta thấy
rằng từ ”thân xác” được hiểu không phải
như là một phần, mà như là sự toàn vẹn tâm lý
thể lý của con người. Và chính con người toàn
vẹn tâm thể lý đó là chủ thể của sự
sống lại mai sau, cũng như nó đã là chủ
thể của lịch sử tội lỗi và cái chết.
Như thế, niềm hy vọng kitô liên quan tới con
người trong sự toàn vẹn hồn xác của nó.
Ngoài ra, với từ ”thân xác” thánh Phaolô ám chỉ con
người trong sự bất định hiện sinh hay
ḷch sử - cứu độ của nó. Nó là thân xác ”tâm
lý” trong điều kiện phải chết và tùng phục tội
loăi và cái chết, và nó cũng là thân xác ”thiên linh” trong
điều kiện mai sau của cuộc sống phục
sinh. ”Thân xác” là một xác định cấu trúc hay bản
thể của con người, trong nghĩa nó là chủ
thể rộng mở cho Thiên Chúa, cho tha nhân và cho thế
giới, trước khi xác đ̣inh sự hiện
thực của nó trong cuộc sống tích cực hay tiêu
cực, nghĩa là trong điều kiện nô lệ tội
lỗi và cái chết, hay trong cuộc sống tự do mà
Thần khí trao ban cho nó. Như thế, trong câu 35 thánh Phaolô
trả lời rõ ràng cho tín hữu Côrintô biết rằng con
người sống lại là con người trong sự
toàn vẹn và hiệp nhất tâm lý thể lý,
được quyền năng trao ban sự sống
của Thần Khí biến đổi theo h́inh ảnh
của Đức Kitô phục sinh.
Các câu 50-57
khai triển đề tài cuộc sống tương lai
của thụ tạo mới và ơn nhưng không Chúa ban
với sắc thái khải huyền như tiếng kèn
thổi vang ngày sau hết, và thái độ nôn nóng chờ
đợi ngày tận thế tới gần. Nhưng
trọng tâm của đoạn cuối cùng trong
chương 15 thư thứ I gửi Côrintô là tính chất
diệu huyền của chiến thắng chống lại
cái chết. Nó diễn tả phép lạ quyền năng
của Thiên Chúa. Nó cho thấy sự cách biệt xa vời
giữa thực tại tự nhiên của thịt xác, máu
huyết và cuộc sống phục sinh bất tử,
cuộc sống thông chia vào nước Chúa (c. 50) Những
gì là hư nát và phải chết tự chúng không thể
đạt tình trạng bất tử (cc. 50b.53-54). Cần
phải có sự can thiệp của Thiên Chúa, là Đấng
cho kẻ chết sống lại và biến đổi hoàn
toàn nhương người còn đang sống (cc. 51.52).
Bởi vì sự biến đổi này là một
bước nhảy vọt trong phẩm chất sự
sống. Tự nó, con người không thể nào
vượt qua được vực thẳm phân chia
t́nh trạng sống trên trần gian và điều
kiện của nhương người đã sống lại.
Phép lạ
nhiệm mầu đó của Thiên Chúa khiến cho thánh Phaolô
cảm động hát lên bài thánh ca chúc tụng chiến
thắng trên cái chết, bằng cách trích hai văn bản của
các ngôn sứ Isaia 25,8 và Hôsêa 13,14. tiếp theo đó là suy
tư thần học về tương quan giữa
luật lệ, tội lỗi và cái chết. Tương
quan này sẽ là trọng tâm các suy tư thần học trong
các thư gửi giáo đoàn Galát và Roma. Con người
nổi loạn chống lại luật lệ của Thiên
Chúa càng ngày càng rơi vào chổ bất phục tùng và
khước từ luật lệ. Và quyền lực
tội lỗi lạm dụng tình trạng đó để
hoạt động trong con người và dẫn
đưa nó tới cái chết và sự hư mất
đời đời. Bài thánh ca tiếp tục với
lời chúc tụng sự can thiệp diệu huyền
của Thiên Chúa qua Đức Kitô để đem lại
ơn cứu độ cho con người. Thánh Phaolô
kết luận chương 15 với lời khuyên tín
hữu bền vững và tấn tới trong lòng tin. Vì trong
Đức Kitô phục sinh mọi khó nhọc của họ
sẽ không uổng công vô ích.
Đức Ông Linh-Tiến-Khải
|