CHÚA NHẬT IV
THƯỜNG NIÊN NĂM B
Lm. Ignatiô
Hồ Thông
Bài đọc I và
Tin Mừng muốn chứng minh rằng Đức Giê-su
thực hiện ở nơi con người của Ngài
một trong những niềm mong đợi của dân
Ít-ra-en: vị Ngôn Sứ tuyệt hảo đến từ
họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 21-28
Theo sách Đệ
Nhị Luật, ông Mô-sê tiên báo và quy định định
chế ngôn sứ. Ông cảnh giác chống lại những
"ngôn sứ mạo danh" nhưng loan báo rằng Thiên Chúa
sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích
thật. Ngài sẽ là "Phát Ngôn Viên của
Thiên Chúa" bên cạnh dân Ngài.
Mc 1: 21-28
Trong Đoạn Tin
Mừng nầy, thánh ký Mác-cô muốn giới thiệu
Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời
nói cũng như việc làm, phát ngôn viên của Thiên Chúa bên
cạnh dân Ngài và cũng là phát ngôn viên của dân Ngài bên
cạnh Thiên Chúa.
1Cr 7: 32-35
Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô
gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân đề cập
đến đời sống hôn nhân và đời sống
độc thân.
BÀI ĐỌC I
Đnl 18: 15-20
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách
sau cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi sách
To-ra và chúng ta dịch sách "Luật".
Nhan đề "Đệ Nhị
Luật" theo nguyên ngữ Hy
lạp:
"deuteronomos" : "deuteros",
"thứ hai"; và "nomos", "luật",
có nghĩa "thứ luật" hay "luật
thứ hai". Quả thật, sách nầy
được đặt vào trong bối cảnh ông Mô sê
nhắc lại những lời dạy của Đức
Chúa cho dân Chúa như lời di chúc của ông trước khi
qua đời. Sách được soạn thảo vào
thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên; chủ
yếu gồm có ba bài diễn từ của ông Mô-sê, theo thể loại văn chương hư
cấu và với một hậu ý thần học. Như vậy, việc khai triển Luật
được định vị vào trong việc nối
dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều
nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và
trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn
được đặt dưới sự bảo lãnh
của người khởi xướng.
Quả thật, Ít-ra-en định cư
lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế
kỷ rồi. Kể từ đó,
luồng sinh khí nồng nhiệt lúc ban đầu đã trôi
qua. Nhờ độ nhạy bén của
những sấm ngôn, tâm tư tình cảm tôn giáo lại
được hâm nóng trở lại.
1. Định chế ngôn
sứ.
Đoạn văn nầy
được trích từ một diễn từ dài của
ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ
và định chế ngôn sứ. Đoạn
trích hôm nay nêu lên vấn đề định chế ngôn
sứ.
Theo văn mạch, ông Mô-sê vừa mới
căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một
người lên làm vua, người đó không phải là
một người ngoại quốc, nhưng là một
người trong họ, được Thiên Chúa chọn
(Đnl 17: 14-15).
Trong đoạn trích hôm nay,
cũng một cách đề phòng như vậy đối
với một ngôn sứ. Dân chúng không được
đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác
thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem
xăm, vân vân. Chính "từ giữa đồng bào
của anh em" mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện
ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn
viên của Ngài bên cạnh dân Ngài: "Ta sẽ
đặt lời Ta trong miệng người ấy, và
người ấy sẽ nói với chúng tất cả
nhữn gì Ta truyền cho người ấy".
Đây không cốt là một ngôn
sứ độc nhất, nhưng là một vị ngôn
sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một
người trung gian như ông Mô-sê. Sau nầy, khi trào
lưu ngôn sứ đã biến mất từ lâu,
người ta sẽ đọc lại bản văn theo một cách khác và người ta sẽ
hiểu ở nơi lời loan báo nầy một vị
ngôn sứ vĩ đại vào thời đại Thiên Sai,
một Mô-sê mới. Quả thật, những người được
giáo quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: "Ông
có phải là vị ngôn sứ chăng?" (Ga 1: 21).
Nhưng ông Mô-sê đã tiên báo trào
lưu ngôn sứ một cách khái quát. Câu sau cùng của
đoạn trích nầy nói một cách rõ ràng hơn: "Ngôn
sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không
truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói,
thì ngôn sứ đó phải chết".
2.
Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống.
Lời loan báo nầy đáp lại
ước vọng của dân chúng, vì tại núi Khô-rép trong
ngọn lửa sáng rực chỉ một mình Mô-sê mới có
thể tiến gần đến Thiên Chúa và đàm
đạo với Ngài diện đối diện mà không
phải chết: "Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng
tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với
chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất" (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh phổ quát
vì người ta tin rằng không ai thấy Thần Linh mà có
thể sống được. Giữa Thần Linh và phàm
nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con
người như tan biến vào trong cõi hư vô. Vì
thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín
đồ không được nhìn ngoái lại đằng
sau kẻo lỡ may nhìn thấy Thần đến nhận
của lễ chăng. Có rất nhiều giai thoại
cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông
Lót vì "ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột
muối" (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng
che mặt khi gió hiu hiu thổi qua báo hiệu sự hiện
diện của Đức Chúa; vì thế ông chỉ nghe
tiếng nói (1V 19: 12-13).
Được đọc trong ánh sáng Tân
Ước, bản văn Đệ Nhật Luật
nầy mặc lấy tất cả mọi chiều kích
của nó: Đức Giê-su là vị ngôn sứ nầy, Ngôi
Lời Thiên Chúa, phát ngôn viên trung thành của Chúa Cha,
Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con
người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hữu
hình ở giữa loài người mà con người có
thể tiến lại gần, chẳng những không
phải chết nhưng trái lại đón nhận "ân
nầy đến ân khác" của Ngài nữa.
BÀI ĐỌC II
1Cr 7: 32-36
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô
gởi các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn
trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống
độc thân trên đời sống hôn nhân, vì
người sống đời độc thân mới có
thể tận tâm tận lực "chuyên lo việc
Chúa". Có hai cách giải thích thái
độ của thánh nhân trong việc đề cao
đời sống độc thân và giảm nhẹ
đời sống hôn nhân.
1. Kinh nghiệm bản
thân.
Cách giải thích thứ nhất
là kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thánh nhân là
người lữ hành của Thiên Chúa, ngài rong ruỗi trên
khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận
lực chu toàn "sứ mạng loan
báo Tin Mừng cho muôn dân". Vì thế, ở trên một
chút, thánh nhân không ngần ngại nêu đời sống
độc thân của mình ra làm gương: "Tôi
ước muốn mọi người đều như
tôi" (1Cr 7: 7).
2. Quan niệm
văn hóa và xã hội.
Cách giải thích thứ hai
thuộc quan niệm văn hóa của thời đó,
đặc biệt vị thế của người
phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa
mới nói một cách tế nhị về đời
sống hôn nhân và những bổn phận hỗ
tương giữa chồng và vợ, cũng như
nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất
khả phân ly của hôn nhân. Thế nên, đời sống
độc thân giải phóng chúng ta khỏi những bận
tâm vật chất trong đời sống vợ chồng
và con cái, vì thế, chúng ta được hoàn toàn tự do
trong việc "chuyên lo phục vụ Chúa".
Việc vợ chồng giúp nhau
thăng tiến đời sống tâm linh trong việc
chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong
tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, quan niệm
văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân tạo nên rào
chắn cho sự phát triển về một nhận
thức bình đẳng giữa chồng và vợ trong
đời sống gia đình Ki tô giáo. Quả
thật, môi trường Cô-rin-tô thấm đẳm bầu
khí văn hóa Hy lạp, vì thế, những người
phụ nữ hưởng được một sự
tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, ngài nhắc nhở họ trong
các buỗi họp cộng đồng không nên để
đầu trần và lên tiếng, vì người nữ
phải im lặng và phục tòng, vân vân. Về
quan điểm nầy, thánh nhân vẫn bị ảnh
hưởng rất sâu đậm bởi những quan
niệm kém tiến bộ của Do thái giáo. Tuy nhiên,
ngài biết công bố sự bình đẳng của tất
cả con cái Thiên Chúa: "Trong Chúa, không nam thì chẳng có
nữ, và không nữ thì chẳng có nam" (1Cr 11: 11).
TIN MỪNG Mc 1: 21-28
Sau khi kêu gọi các môn
đệ đầu tiên và được họ đáp
trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa
Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con
đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ cho đến tận thành
Ca-phác-na-um.
1. Thành Ca-phác-na-um.
Thành
Ca-phác-na-um hưởng được một vị
thế địa lý đặc biệt: giáp giới
với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pha-lệ-tinh, và có
một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem
đến Đa-mát. Vì thế thành phố được
mệnh danh là "Ngã Tư Quốc Tế". Chính
ở đó mà Đức Giê-su sẽ thiết lập
cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ
kín đáo của sứ điệp phổ quát của Ngài. Tuy
nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy
trong các hội đường như sau nầy các Tông
Đồ và cả thánh Phao-lô sẽ theo gương của
Ngài.
Hội
đường không là đền thờ, nhưng chỉ
là nơi tụ họp và cầu nguyện (chỉ ở
Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và giáo sĩ). Người
ta tụ họp ở đây vào ngày sa-bát (luôn luôn vào
buổi sáng) để đọc các đoạn văn
Luật và ngôn sứ, hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh
vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc
tự ý hay được chỉ định, có thể
đọc và diễn giải những bản văn Kinh
Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su lên tiếng vào
phụng vụ sa-bát.
Thánh
Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh
diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Thánh ký chú
tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu
bật uy quyền đặc biệt mà người ta
nhận ra ở nơi Ngài. Đức Giê-su xuất
hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời
Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng
với uy quyền của Con Người thanh sạch và
hoàn hảo đến nổi không sự ác độc thâm
hiểm nào có thể chịu đựng nổi sự
hiện diện của Ngài.
Mặt
khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai
phương cách tiến hành thường hằng mà
Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ
vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo,
qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của
Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.
2. Đức
Giê-su giảng dạy:
"Người giảng dạy như
một Đấng có thẩm quyền, chứ không như
các kinh sư". Các kinh sư
thường nhất là những người có bằng
cấp học vị, được đào tạo từ
những trường lớp về những giải thích
và những chú giải tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ
dựa trên những truyền thống của các bậc
thầy của họ. Riêng một mình Đức
Giê-su, Ngài không xuất thân từ trường lớp nào, và
cũng không quy chiếu đến bất kỳ "kinh
sư" hay "bậc tôn sư" nào. Ngài
giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền
của riêng Ngài và loan báo mọi điều Kinh Thánh loan báo
đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
3. Dấu chỉ kèm theo:
Một con người mà không ai có thể
buộc tội Ngài về bất cứ điều gì,
đây là một sự mới lạ khiến quỷ Xa-tan
phải tò mò muốn biết. Rồi, trong
hoang địa, nó đã thử thấu hiểu mầu
nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó
tự diễn tả qua một người bị quỷ
ám khốn khổ. Đối mặt với
Đức Giê-su, tên hiểm ác buộc phải nói sự
thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột
dạ: "Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Tuy nhiên,
Đức Giê-su buộc nó phải câm.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không
là độc nhất; nó còn xảy ra ở nơi khác
nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: "Đức
Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc
đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều
quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết
Người là ai" (Mc 1: 34).
4. Mầu
nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su còn muốn dành
riêng bí mật của con người Ngài, vì sợ
người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài.
Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần
Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm
của Ngài. Đó là điều mà các nhà
chú giải gọi "bí mật Thiên sai" của
Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin
Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma
quỷ không được vén mở căn tính của Ngài,
cũng như Ngài những người được
chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài tuyên
xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Người ta dể dàng
hiểu được thái độ nầy của
Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết
bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp
thực hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên
Sai "nhân hậu và khiêm tốn tận đáy lòng",
hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu
đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể bày
tỏ rõ ràng sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh
của Ngài.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
|