MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: suy niệm
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Chúa Nhật Iv Thường Niên Năm B
Chủ Nhật, Ngày 1 tháng 2-2009
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN NĂM B


Lm. Ignatiô Hồ Thông

Bài đọc I và Tin Mừng muốn chứng minh rằng Đức Giê-su thực hiện ở nơi con người của Ngài một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en: vị Ngôn Sứ tuyệt hảo đến từ họ và ở giữa họ.  

 

Đnl 18: 21-28    

Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê tiên báo và quy định định chế ngôn sứ. Ông cảnh giác chống lại những "ngôn sứ mạo danh" nhưng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Ngài sẽ là "Phát Ngôn Viên của Thiên Chúa" bên cạnh dân Ngài.      

 

Mc 1: 21-28     

Trong Đoạn Tin Mừng nầy, thánh ký Mác-cô muốn giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm, phát ngôn viên của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài và cũng là phát ngôn viên của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.      

 

1Cr 7: 32-35     

Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.

      

BÀI ĐỌC I Đnl 18: 15-20 

Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách sau cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi sách To-ra và chúng ta dịch sách "Luật". 

Nhan đề "Đệ Nhị Luật" theo nguyên ngữ Hy lạp:

"deuteronomos" : "deuteros", "thứ hai"; và "nomos", "luật", có nghĩa "thứ luật" hay "luật thứ hai". Quả thật, sách nầy được đặt vào trong bối cảnh ông Mô sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Chúa như lời di chúc của ông trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên; chủ yếu gồm có ba bài diễn từ của ông Mô-sê, theo thể loại văn chương hư cấu và với một hậu ý thần học. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. 


Quả thật, Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Kể từ đó, luồng sinh khí nồng nhiệt lúc ban đầu đã trôi qua. Nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tư tình cảm tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.  


1. Định chế ngôn sứ. 

Đoạn văn nầy được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên vấn đề định chế ngôn sứ. 

Theo văn mạch, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng là một người trong họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15). 

 

Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính "từ giữa đồng bào của anh em" mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn viên của Ngài bên cạnh dân Ngài: "Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả nhữn gì Ta truyền cho người ấy". 

Đây không cốt là một ngôn sứ độc nhất, nhưng là một vị ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Sau nầy, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất từ lâu, người ta sẽ đọc lại bản văn theo một cách khác và người ta sẽ hiểu ở nơi lời loan báo nầy một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời đại Thiên Sai, một Mô-sê mới. Quả thật, những người được giáo quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" (Ga 1: 21). 

 

Nhưng ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát. Câu sau cùng của đoạn trích nầy nói một cách rõ ràng hơn: "Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết". 

 

2. Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống. 

Lời loan báo nầy đáp lại ước vọng của dân chúng, vì tại núi Khô-rép trong ngọn lửa sáng rực chỉ một mình Mô-sê mới có thể tiến gần đến Thiên Chúa và đàm đạo với Ngài diện đối diện mà không phải chết: "Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất" (Xh 20: 19). 

 

Đây là sự sợ hãi linh thánh phổ quát vì người ta tin rằng không ai thấy Thần Linh mà có thể sống được. Giữa Thần Linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo lỡ may nhìn thấy Thần đến nhận của lễ chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì "ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối" (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi qua báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế ông chỉ nghe tiếng nói (1V 19: 12-13).  

Được đọc trong ánh sáng Tân Ước, bản văn Đệ Nhật Luật nầy mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó: Đức Giê-su là vị ngôn sứ nầy, Ngôi Lời Thiên Chúa, phát ngôn viên trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hữu hình ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết nhưng trái lại đón nhận "ân nầy đến ân khác" của Ngài nữa.  

 

BÀI ĐỌC II 1Cr 7: 32-36 

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực "chuyên lo việc Chúa". Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân. 


1. Kinh nghiệm bản thân. 

Cách giải thích thứ nhất là kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thánh nhân là người lữ hành của Thiên Chúa, ngài rong ruỗi trên khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận lực chu toàn "sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân". Vì thế, ở trên một chút, thánh nhân không ngần ngại nêu đời sống độc thân của mình ra làm gương: "Tôi ước muốn mọi người đều như tôi" (1Cr 7: 7). 

 

2. Quan niệm văn hóa và xã hội. 

Cách giải thích thứ hai thuộc quan niệm văn hóa của thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Thế nên, đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những bận tâm vật chất trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế, chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc "chuyên lo phục vụ Chúa".  

 

Việc vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân tạo nên rào chắn cho sự phát triển về một nhận thức bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki tô giáo. Quả thật, môi trường Cô-rin-tô thấm đẳm bầu khí văn hóa Hy lạp, vì thế, những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, ngài nhắc nhở họ trong các buỗi họp cộng đồng không nên để đầu trần và lên tiếng, vì người nữ phải im lặng và phục tòng, vân vân. Về quan điểm nầy, thánh nhân vẫn bị ảnh hưởng rất sâu đậm bởi những quan niệm kém tiến bộ của Do thái giáo. Tuy nhiên, ngài biết công bố sự bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: "Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam" (1Cr 11: 11). 

 

TIN MỪNG Mc 1: 21-28 

Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ cho đến tận thành Ca-phác-na-um. 

 

1. Thành Ca-phác-na-um. 

Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pha-lệ-tinh, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế thành phố được mệnh danh là "Ngã Tư Quốc Tế". Chính ở đó mà Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ kín đáo của sứ điệp phổ quát của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau nầy các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô sẽ theo gương của Ngài. 

 

Hội đường không là đền thờ, nhưng chỉ là nơi tụ họp và cầu nguyện (chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và giáo sĩ). Người ta tụ họp ở đây vào ngày sa-bát (luôn luôn vào buổi sáng) để đọc các đoạn văn Luật và ngôn sứ, hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự ý hay được chỉ định, có thể đọc và diễn giải những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su lên tiếng vào phụng vụ sa-bát. 

 

Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Thánh ký chú tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài. Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của Con Người thanh sạch và hoàn hảo đến nổi không sự ác độc thâm hiểm nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài.  

 

Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.  

 

2. Đức Giê-su giảng dạy: 

"Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư". Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo từ những trường lớp về những giải thích và những chú giải tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc thầy của họ. Riêng một mình Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ trường lớp nào, và cũng không quy chiếu đến bất kỳ "kinh sư" hay "bậc tôn sư" nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.  


3. Dấu chỉ kèm theo: 

Một con người mà không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến quỷ Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử thấu hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó tự diễn tả qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác buộc phải nói sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: "Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm. 

 

Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là độc nhất; nó còn xảy ra ở nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: "Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai" (Mc 1: 34). 

 

4. Mầu nhiệm của Đức Giê-su. 

Đức Giê-su còn muốn dành riêng bí mật của con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi "bí mật Thiên sai" của Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được vén mở căn tính của Ngài, cũng như Ngài những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài. 

Người ta dể dàng hiểu được thái độ nầy của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thực hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên Sai "nhân hậu và khiêm tốn tận đáy lòng", hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể bày tỏ rõ ràng sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

 

Lm. Ignatiô Hồ Thông

 

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Một Ngày Bận Rộn. (2/3/2009)
Mahatma Gandhi Và Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt (2/2/2009)
Đổi Mới – “change We Need” (2/2/2009)
Không Còn Nô Lệ (2/2/2009)
Tha Thứ (2/2/2009)
Tin/Bài cùng ngày
Quyền Năng (2/1/2009)
Ma Quỷ (2/1/2009)
Lễ Dâng Chúa Giêsu Vào Đền Thờ (2/1/2009)
Hãy Xuất Khỏi Người Này (2/1/2009)
Tin/Bài khác
Chạy Theo Tà Thần (1/31/2009)
Chúa Nhật Thứ 4b Thường Niên (1/2/2009): Rao Giảng Và Chữa Lành (1/31/2009)
Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật Thứ 4b Thường Niên (1/2/2009) (1/31/2009)
Ánh Sáng Đẩy Lui Bóng Tối (1/31/2009)
Satan, Mi Là Ai? (1/31/2009)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768