MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Ls: Ảnh Tượng Mẹ
Thứ Hai, Ngày 29 tháng 12-2008

Ảnh Tượng Mẹ

Trại cải tạo Nam Hà, tháng 5 năm 1979.

Ngồi trầm ngâm bên cái lon bơ đã trống rỗng, tôi suy nghĩ xem mình sẽ
làm gì với cái lon này: làm cái gầu múc nước? làm cái lò? hay cắt ra
làm lược? làm dao? làm muỗng?...Mọi dự tính đều không hấp dẫn lắm.
Cuối cùng, tôi nghĩ: mình sẽ cắt một hình tượng Ðức Mẹ, không chừng
hay đấy. Tôi tự khen mình đã nghĩ ra được một ý kiến ngộ nghĩnh.

Tôi bắt tay vào việc ngay. Sau khi cắt cái lon bơ ra thành một miếng
nhôm bằng phẳng, tôi nhờ anh Khôi vẽ hình Ðức Mẹ lên miếng nhôm. Anh
ấy rất có hoa tay, vẽ đẹp, viết chữ cũng đẹp. Anh giúp tôi bằng cách
lấy một cái đinh nhọn, vẽ hình Ðức Mẹ lên miếng nhôm. Tôi kiên nhẫn
cắt miếng nhôm theo đường vẽ của anh Khôi, bằng cái cắt móng tay. Công
việc này kéo dài gần hai tháng. Miếng nhôm đã có hình dáng Ðức Mẹ đứng
dang hai tay, nhưng còn xấu xí lắm. Tôi lại nhờ anh Khôi sửa lại, và
vẽ mặt và vẽ áo của Mẹ. Anh ấy cắm cụi mài, dũa, rồi vẽ, suốt mấy ngày
chúa nhật liền. Nhờ viết chữ đẹp, anh thường đựợc Ban Quản Trại gọi
lên văn phòng nhờ viết các khẩu hiệu. Trong những dịp ấy, anh lấy sơn
đem về vẽ tượng Mẹ. Cuối cùng, một ảnh tượng Ðức Mẹ thật đẹp đã hoàn
thành: Ðức Mẹ đứng trên quả địa cầu, mắt Mẹ nhìn xuống, hai tay Mẹ
dang rộng ra như sẵn sàng cứu vớt đàn con khốn khổ của Mẹ. Anh Khôi
tác giả của bức ảnh tượng Mẹ, đã nói: Tôi hoàn thành tác phẩm này với
trái tim của tôi." Anh em Công giáo trong phòng vui mừng và cảm động
lắm.

Thật bất ngờ, sau đó vài ngày, cha Nguyễn Hiến Tân (dòng Ðồng Công) từ
trại A chuyển đến. Anh em công giáo "bắt liên lạc" ngay. Ngày Chúa
nhật kế đó, cha Tân đã giải tội cho nhiều anh em công giáo trong trại.
Sau khi xin ý kiến của Cha, "buổi làm phép" tượng Mẹ được dự định tổ
chức vào ngày chúa nhật sắp đến. Hôm ấy, anh em công giáo ở các phòng
khác tụ họp đến phòng 16. Tượng Mẹ được đặt trên một hộp bánh qui
(được phủ kín bằng một cái khăn tay), phía trước đặt một bình hoa dại
mà anh em đã hái ở ngoài đồng, mang về từ hôm trước. Cha Tân trịnh
trọng làm phép tượng Mẹ. Sau đó Ngài dâng Thánh lễ. Anh em sốt sắng dự
lễ và được rước lễ nữa (mỗi người được rước một Mẩu Mình Thánh Chúa
lớn bằng hạt dưa). Chưa bao giờ chúng tôi tham dự thánh Lễ một cách
thành kính như vậy. Sau Thánh Lễ có tiệc trà, gồm có nước rau má nóng
và 3 gói mì ăn liền bẻ ra chia nhau ăn. Chúng tôi không ai có thể quên
được bầu không khí tin tưởng và cậy trông của Thánh Lễ ngày hôm ấy.

Ðã trải qua bốn, năm năm bị giam giữ trong trại, nên vấn đề kỷ luật
chẳng mấy ai quan tâm lắm. Trong phòng ngủ, trên vách tường, anh em
đeo lủng lẳng đủ thứ: náo áo quần, soong nồi, cần câu, bao bị vv...
thế mà êm xuôi cả. Thấy vậy, chúng tôi quyết định treo ảnh Ðức Mẹ lên
vách tường cuối phòng. Từ hôm đó, mỗi đêm, anh em công giáo trong
phòng tụ họp dưới chân tượng Mẹ, đọc kinh, cầu nguyện. Và cũng từ ngày
ấy, đời sống Ðức Tin của anh em chúng tôi được thăng tiến rất nhiều.

Nhưng sau đó, khoảng hơn một tháng một tên "ăng ten" nào đó đã báo cáo
lên Ban Quản Trại, việc anh em chúng tôi sùng kính ảnh tượng Mẹ. Vào
một buổi sáng chúa nhật, cửa phòng vừa mở cửa, thì Trung úy Kíp, dẫn
hai cán bộ, xồng xộc đi vào phòng, đến ngay chỗ treo ảnh tượng Ðức Mẹ
và lấy ảnh tượng Mẹ mang đi. Hắn hăm dọa sẽ trừng phạt nặng nề nếu ai
còn tái diễn "việc mê tín dị đoan" này. Ngày chúa nhật đó là một ngày
buồn thảm nhất của anh em chúng tôi.

Thời gian lặng lẽ trôi qua. Một hôm, khi đang sắp hàng chuẩn bị đi lao
động, tôi và 3 anh nữa được gọi ở nhà làm công tác đặc biệt. Công tác
đó là dọn dẹp một nhà kho, chứa linh tinh đủ thứ đồ đạc: bàn ghế gẫy,
nồi niêu cũ, cuốc xẻng, có cả cờ và khẩu hiệu nữa. Mọi thứ vất bừa
bãi, lộn xộn, chúng tôi phải dọn dẹp lại cho ngăn nắp. Khi đang xếp
lại mấy cái ghế gãy, tôi chợt thấy ảnh tượng Mẹ nằm trong góc phòng.
Tôi vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ, vội lấy dấu vào người để mang về.
Ðến trưa, khi sắp hàng điểm danh để nhập trại, người tôi như lên cơn
rét, chân tay cứ run bần bật, nhất là lúc đi ngang qua trước một cán
bộ kiểm tra trước khi vào trại. Nhưng may quá, không có việc gì rắc
rối xảy ra. Về phòng, tôi lau chùi ảnh tượng Mẹ cho sạch sẽ và treo
lên chỗ cũ. Nhiều anh em trong phòng cười tôi "điếc không sợ súng" Tôi
sẵn sàng chấp nhận hậu quả việc tôi làm. Tôi sung sướng thấy Ảnh tượng
Mẹ lại trở về với anh em chúng tôi. Và rồi đêm đêm, anh em công giáo
lại tụ họp dưới chân Mẹ để đọc kinh, cầu nguyện...

Khoảng hai tháng sau, một hôm, Trung úy Kíp lại xuất hiện; hắn hung
hăng đi đến chỗ treo ảnh tượng Mẹ. Chúng tôi chờ đợi một cơn thịnh nộ
của tên Trung úy Việt cộng, từ lâu có tiếng là dữ dằn. Hắn đến gần,
nhìn thật kỹ vào ảnh tượng Mẹ. Bỗng nhiên mắt hắn mở to, miệng há hốc,
hắn nói lẩm bẩm mấy tiếng gì đó rồi quay trở ra. Hắn vội vã, hấp tấp
rời khỏi phòng và chạy như bị ma đuổi. Có lẽ hắn ngạc nhiên đến sợ hãi
là tại sao bức tượng đã bị hắn lấy đem quăng vào kho, nay lại tự động
trở về chỗ cũ... Một điều lạ lùng là sau đó, hắn không dám đả động gì
đến chuyện "ảnh tượng Ðức Mẹ" nữa. Cũng từ đó, câu chuyện "tượng Ðức
Mẹ bị lấy đi, lại tự động trở về chỗ cũ"được đốn đãi khắp nơi -mà sự
đồn đãi này lại do chính những công an của Trại xầm xì với nhau mà ra.

Anh em trại viên chúng tôi hả hê lắm. Các ngày chúa nhật, anh em công
giáo ở các phòng khác tiếp tục đến viếng ảnh tượng Mẹ, đọc kinh, cầu
nguyện với Mẹ. Lúc nào dưới chân tượng Mẹ cũng có "lễ vật", khi thì
một nắm hoa dại, khi thì một quả cà chua, khi thì vài mảnh giấy nhỏ
viết lời tạ ơn, xin ơn với Mẹ.

Từ ngày có ảnh tượng Mẹ, chúng tôi thấy ngày tháng tù đầy có vơi đi
phần nào khổ ải. Chúng tôi có một chút ước mong, ngày chóng qua để đến
tối, chúng tôi sẽ được đến dưới chân ảnh Tượng Mẹ, để được Mẹ an ủi.
Niềm thương, nỗi nhớ gia đình luôn luôn dày vò anh em chúng tôi, nay
cũng có phần nguôi ngoai. Thấm thoát một năm cũ sắp hết. Anh em mong
đến những ngày Tết để có những bữa ăn khá hơn ngày thường. Chiều 29
Tết năm ấy, anh được phát mỗi người 2 cái bánh chưng. Dĩ nhiên là chất
lượng rất kém, chỉ có nếp và ít đậu xanh làm nhân; song anh em vui
mừng lắm, vì sẽ được ăn no. Chiều hôm ấy, cửa phòng giam vừa đóng lại,
vài anh em đã vội vã đem bánh chưng ra ăn. Nhiều anh em khác thì thẫn
thờ, thương cha, nhớ mẹ, thương vợ, thương con...nhất là trong những
ngày năm hết Tết đến như thế này. Họ mơ một ngày Xuân nào đó, họ được
mừng tuổi cha mẹ, được sum họp với vợ con trong tiếng pháo giao thừa
rộn rã...nhưng chỉ là một giấc mơ. Những tiếng thở dài đâu đó, buồn
bã.

Ðến gần nửa đêm, bỗng nghe anh Phú ú ớ la, rồi vật mình vật mẩy. Vài
anh em chạy đến xem; thì ra anh Phú bị bội thực, anh đã ăn hơn một cái
bánh chưng. Lâu nay đói thường xuyên, tối nay ăn nhiều quá, nên anh
không thở được. Anh em xúm lại tìm cách cứu chữa cho anh Phú; người
thì cạo gió, người thì thoa bóp, có người bày phải chọc cổ cho anh Phú
ói ra mới có thể cứu được. Mọi phương pháp đều được đem ra áp dụng.
Nhưng không có hiệu quả. Hơi thở của anh Phú càng lúc càng khó khăn,
tắc nghẽn và yếu dần. Anh Cẩn (trưởng phòng) quyết định kêu cấp cứu.
Một cán bộ trực trại đến hỏi: "Anh nào bệnh gì vậy?" Anh trưởng phòng
mô tả bệnh trạng của anh Phú và yêu cầu đem anh ấy đi cấp cứu ngay.
Nhưng cán bộ trực trả lời "bệnh đó dù có mang đi bệnh viện cũng không
cứu được, thôi để đấy, sáng mai tính." Khi quay lưng đi, hắn còn nói
với lại "Bệnh đó có trời mà cứu!"

Anh em trong phòng tiếp tục làm mọi cách để cố cứu chữa cho anh Phú.
Bây giờ anh Phú thở rất yếu và dứt quãng. Anh em nhìn nhau lắc đầu,
nghẹn ngào. Tội chợt nghĩ đến Ðức Mẹ, vội kéo tay anh Nam, anh Phát, 3
chúng tôi đều quì trước ảnh Tượng Mẹ, cùng nhau đọc Kinh Kính Mừng.
Sau mỗi kinh Kính Mừng là một lời cầu nguyện, khẩn thiết van nài Ðức
Mẹ cứu anh Phú. Không biết chúng tôi đã đọc kinh và cầu nguyên trong
bao lâu, bỗng nghe vài anh em reo lên "Anh Phú thở được rồi". Sau đó
lại nghe anh Phú nôn ọe. Trong phòng ồn ào hẳn lên, ai cũng vui mừng
khi thấy cơn bệnh của anh Phú có hy vọng cứu được. Sau khi uống chút
nước nóng có pha ít gừng, và được anh em tiếp tục xoa bóp, hơi thở của
anh Phú tương đối nhẹ nhàng, và anh đã ngủ yên cho đến sáng. Hôm sau,
anh đã ngồi dậy được và có thể đi lại trong phòng. Anh được anh em kể
lại diễn tiến của cơn bạo bệnh của anh đêm qua, anh rất cảm động. Anh
đi cám ơn từng người một. Nhưng khi anh Phú biết anh em chúng tôi đã
tha thiết cầu xin Ðức Mẹ cứu anh thoát chết, anh xúc động lắm. Dù anh
không có đạo, tôi thấy nhiều lần anh đứng trầm ngâm trước ảnh Tượng
Ðức Mẹ. Có lẽ anh biết, bệnh trạng của anh, trong hoàn cảnh này, chẳng
có một phương thuốc gì có thể cứu được anh, ngoại trừ "phép lạ" mà Ðức
Mẹ đã thương ban cho anh, như tên cán bộ trực trại đã nói "bệnh đó chỉ
có Trời cứu"

Mấy ngày sau, anh Phú ngỏ ý muốn theo Ðạo. Thế là một lớp giáo lý tân
tòng được kín đáo tổ chức. Lớp học chỉ có hai học viên: anh Phú và anh
Cảnh. Sau hơn 4 tháng học giáo lý, hai anh đã đưộc Cha Tân "khảo
hạch". Cha rất vui lòng và quyết định sẽ ban phép Bí Tích rửa tội cho
2 anh vào chúa nhật sắp đến -Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Hôm ấy, chúng tôi bố trí người canh gác đàng hoàng. Nếu cán bộ xuất
hiện phải báo động liền, ám hiệu là hô to "các anh trực nhật chuẩn bị
đi lãnh cơm." Hai anh Cảnh, Phú mặc đồ "vía" nhất của hai anh, râu
được cạo và tóc chải gọn gàng (vì ngày thường chúng tôi ít khi để ý
đến râu, tóc của mình) Khá đông anh em Công giáo tham dự Lễ Rửa Tội
của 2 anh. Sau khi ban phép Bí tích Rửa tội cho 2 anh, anh Phú và anh
Cảnh được rước Mình Thánh Chúa lần đầu tiên trong đời.

Sau Thánh Lễ, một tiệc trà "linh đình" được dọn ra, gồm có: cháo tôm
khô, mỗi người được nửa chén, 5 gói mì ăn liền bẻ ra chia nhau ăn. Lại
có cả tráng miệng, do anh Cảnh khoản đãi: mỗi người được một muỗng cà
phê đường cát trắng.

Từ đó, đêm đêm dưới chân ảnh Tượng Mẹ có thêm một người con của Mẹ anh
Phú) cùng các anh em khác, đọc kinh, cầu nguyện.

Một đêm nọ, nghe tiếng động lạ, tôi giựt mình thức giấc. Phản ứng tự
nhiên của tôi là nhìn về phía ảnh Tượng Mẹ, Tôi thấy anh Ba đang quì
trước ảnh Tượng Mẹ, mặc dù đêm đả khuya. Hôm sau tôi đi gặt lúa. Khi
gặt xong anh Ðội Trưởng xin cho anh em tắm sông, vì gặt lúa ngứa ngáy,
khó chịu lắm. Sau khi tăm xong, anh em sắp hàng, điểm danh để về trại.
Nhưng anh đội trưởng đếm mãi vẫn thiếu một người. Người thiếu là anh
Ba. Một số anh em đoán là anh Ba bị chìm đâu đó dưới sông. Nhưng, tôi
biết là anh Ba đã vượt trại> Ban Quản Trại đã phái nhiều toán công an
đi lùng kiếm, nhưng không tìm thấy anh Ba. Mấy tháng sau, một anh em
được gia đình từ trong Nam ra thăm nuôi, cho biết là anh Ba đã về đến
nhà, và đã vượt biên bằng đường bộ qua Thái Lan, hiện đang ở trại
Sikiew, chờ thanh lọc.

Từ vài tuần nay, anh em bàn tán về ngưồn tin, sẽ có một số trại viên
được di chuyển vào Nam, không biết lành dữ thế nào. Việc gì đến phải
đến. Một buổi sáng chúa nhật, cán bộ trực trại đọc tên những anh em di
chuyển vào Nam (nhưng không biết đến trại nào). Tám chục phần trăm anh
em sẽ di chuyển vào Nam. Tôi lọt tên, vẩn ở lại trại Nam Hà. Ða số anh
em Công giáo đều nằm trong danh sách đi Nam, vì vậy anh em đề nghị để
họ mang ảnh Tượng Mẹ theo. Trước khi di chuyển, anh em phân công cho
anh Phát phụ trách giữ ảnh Tượng Mẹ. Anh ấy cẩn thận bọc ảnh Mẹ trong
một bao nylon, ngoài làm một khung tre để che chở cho khỏi móp méo.
Vào một buổi chiều, anh em được di chuyển ra ga Phủ Lý để lên xe lửa,
xuôi về Nam. Ảnh Tượng Mẹ cũng theo đàn con bất hạnh của Mẹ đi về Nam,
để Mẹ tiếp tục an ủi, cứu giúp họ trong những cơn hoạn nạn.

Sau đó chúng tôi được biết Ảnh Tượng Mẹ đã đến Trại Gia Trung với đàn
con của Mẹ.

Năm 1986, khi được tha về, tôi đã liên lạc với nhiếu anh em ở trại Gia
Trung, hỏi về bức ảnh Tượng Mẹ, nhưng không ai biết người nào đã cất
giữ. Tôi cố gắng tìm anh Phát, nhưng không biết anh lưu lạc phương
nào.

Ảnh Tượng Mẹ dù thất lạc nơi đâu, nhưng Mẹ luôn luôn ở bên cạnh các
con, nhất là những người con khốn khổ của Mẹ, để Mẹ an ủi, che chở,
cứu giúp và yêu thương họ. Loài người chúng ta may mắn và hạnh phúc
biết bao, vì chúng ta có Mẹ Maria, Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Lê Nguyên Khánh.
                 

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
12 Lời Chúc Đầu Năm Tới Quý Vị (12/31/2008)
Lời Chúc Năm Mới 2009: Hạnh Phúc, Vạn Sự Như Ý! (12/31/2008)
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (12/31/2008)
Lễ Đức Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa (12/30/2008)
Đức Mẹ Maria, Người Mẹ Tâm Niệm (12/30/2008)
Tin/Bài khác
Hoa Kỳ: Hàng Triệu Trẻ Vô Sinh Đang Run Sợ Trước Nhiệm Kỳ Tổng Thống Của Ông Barack Obama Sắp Tới (12/27/2008)
Lời Mẹ Nhắn Nhủ Trong Đêm Giáng Sinh: (12/26/2008)
Ls: Lễ Giáng Sinh Nơi Trại Tù Cải Tạo Cộng Sản (12/25/2008)
Lễ Giáng Sinh: Thứ Năm 25-12, Ngày Sinh Nhật Ðức Giêsu (12/25/2008)
Thị Kiến Về Giáng Sinh Theo Chân Phước Ann Catherine Emmerich (12/25/2008)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768