CHÉN CƠM GIÁNG SINH
Đêm.
Thanh vắng. Không gió thỏang.
Trời se lạnh báo hiệu mùa đông đã sang. Căn
nhà thấp hẹp càng co lại khi màn đêm buông xuống.
Tôi ngồi thu lu trong ghế nệm đã bẹp dúm dó.
Một vết hõm sâu luôn nhăn nhó không còn đủ
độ đàn hồi dù còm cõi cái thân tôi. Bên ngoài một
cái kệ chứa vài mặt hàng nhu yếu phẩm. Bên trong
chiếc màn ngủ vừa phủ kín diện tích còn
lại. Thời gian cô đọng khô khốc. Đầu óc
xoáy sâu trong ngày. Đọc xong báo cáo của anh John Pham
về chiến dịch “chén cơm Giáng Sinh” do hội KMF, mà
Đức Ông Giuse Hòang Minh Thắng, giáo sư Kinh Thánh
tại Rôma, làm chủ tịch phát động (x. www.llcvk.com), tôi nao nức khôn tả
và cũng cảm động không ít. Danh sách đóng góp
mỗi ngày mỗi cộm dầy. Nhiều cháu nhỏ
đập heo tung tăng hồn nhiên đóng góp.
Một sự sẻ chia đàm ấm dành cho các bạn nghèo
hèn mồ côi còn thiếu chăn ấm nệm êm nơi
miền cao nguyên mà năm xưa gợi nhớ...
Mỗi khi trở về từ cái
nôi là Hội Thừa Sai Paris (M.E.P), cố GM Paul Seitz luôn ví
von ngài như một bà nội trợ. Ngài đi thuyết giảng
nhiều nơi chốn trong đó có cả những
viện mồ côi để kêu gọi lòng yêu thương
đối với những người đồng
cảnh ngộ. Những chuyến đi xa chính là những
lần ngài “đi chợ” mua mắm muối, chút
lương thực, con cá miếng thịt để
vỗ béo các chú nhỏ yếu đuối còm cỏi của
Ngài cùng những người nghèo dân tộc khác.
Trước những hình ảnh vồn vã yêu thương
này làm tôi quay cuồng không kém. Để rồi đêm
như lắng đọng như hút sâu trăn trở.
Mẹ Tê-rê-sa như còn nhắn
nhủ:
“Mỗi
người có một sứ mệnh để thi hành.
Sứ mệnh đó là Yêu Thương. Khi giờ chót
đến, chúng ta sẽ đối diện với Thiên
Chúa; không phải chúng ta đã làm bao nhiêu, nhưng chúng ta
đã biết bỏ bao nhiêu vào những công việc của
mình.”
Thế đấy tôi như
được mời gọi. Bổn phận. Trách
nhiệm. Đồng cảm. Giáo Hôi lữ hành thúc giục
mọi người cùng đồng hành là thiết yếu,
là hữu tình. Chí phải khi cuộc sống là “một
lữ hành khám phá”. Tôi xao xuyến về sự “biết
bỏ bao nhiêu yêu thương vào những việc mình làm.”
Đêm sâu.
Hun hút.
Đường xá chìm vào giấc ngủ. Cây lặng gió. Tôi
chao đảo. Da thịt teo tóp. Vết lở bầm tím.
Tôi thấp thỏm trên ghế. Thánh Toma a Kempi bảo:
“Những
đau khổ hiện tại làm cho ta trở nên cao
thượng và đem lại cho ta một vĩnh hằng
bất diệt”.
Còn Hàn Mạc Tử thì lại rên
rỉ nhưng trong niềm tin:
“.. .Thịt da
tôi sượng sần và khô điếng
Tôi đau vì rùng rợn
đến vô biên
Tiếng rú ban đêm rợn bóng mờ
Tiếng rú hồn tôi ru vỡ sóng . . .
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
“Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi!”
Tôi bỗng thấy mình thật
nhẹ như được phó thác. Lâng lâng khỏi
ghế ngồi. Hồn phiêu lạc tựa “Vào trần gian ta chẳng đem gì, thì ta cũng
chẳng đem gì lúc ra đi”. Dù chẳng có gì nhưng
tận sâu tôi còn có cả một ước vọng khát khao
mà Chúa dậy:
“Hỡi
những kẻ được Cha ta chúc phúc . . . vì Ta đói
các con đã cho ăn, Ta khát các con đã cho uống, Ta
trần truồng các con đã cho mặc”.
Chính vì thế mà đêm càng sâu ta
càng như linh động trong trăn trở. Và tôi linh
cảm thấy rằng tôi còn đủ sức để
cùng anh em gầy dựng “chén cơm Giáng Sinh“ đang cận
kề.
Hôm sau .
Chiều không mưa. Con hẻm vẫn
ngập ngụa từ cơn mưa hôm trước.
Vẫn tiếng xôn xao. Tiếc xót ngậm ngùi văng
vẳng: “Thôi chết tôi rồi! Đi đoong một
triệu như không! Ôi giời ơi “thần đề”
láo toét. Quái quỉ với con số chỉ sai một ly ông
cụ.” Tôi chẳng còn lạ gì cái thời khắc
chiều buồn điên đảo này. Mọi người
như lao ra đường nhìn vào những con số trong
tờ giấy dò bằng bàn tay mà than vãn. Lắm kẻ tan
gia bại sản chỉ trong một buổi chiều kinh
hòang. Rồi cũng vài ba con “nghiện đề” điên
tiết vì những con số đã nuôi lâu ngày và đã cúng
bái. Họ ậm ực đổ đóang lên đầu
những người bán vé số. Cứ thế inh ỏi
vỡ toang một buổi chiều đông ngan ngát lạnh.
Chú bán vé số loay hoay mãi vẫn không thoát ra khỏi vòng vây
của những con đề vì đôi chân khập
khiễng. Quả thật đáng tội! Chú có dính dáng gì
đến họ đâu. Thế mà vẫn bị chì
chiết, bị sỉ nhục, bị vạ lây.
Người phụ nữ 3 trong 1 mà chòm xóm thường ví
von khi chị ta chưa tròn tuổi ba mươi nhưng
đã ba đời chồng. Đúng là 3 đời
chồng trong 1 đời hoa. Chị ta đã chẳng
từ nan bất kể người đó là ai. Chị oang
oang giọng khản đặc chòng ghẹo:
- Anh đẹp trai ơi! Anh đã có vợ chưa
đấy? Nếu chưa cho em theo cùng!
Chú bán vé số đỏ mặt
tía tai ngượng ngịu. Chú quay ngoắt bỏ đi.
Nhưng vẫn chưa yên, chị ta lại sằng sỗ
hơn:
- Em sẽ làm anh sướng rên lên đấy!
Lúc này tôi không cầm lòng
được trước sự nhẫn tâm vô cãm của
chị. Tôi dằn mặt:
- Xin để cho anh ta yên đi. Ba người
chưa đủ sướng sao.
Chị ta vẫn chẳng vừa, ngoái cổ lại
rống tiếp:
- Bao nhiêu cho vừa một đời hoa, hỡi anh!
Kinh nghiệm sống cho tôi
biết không nên đối đầu với những ai
bỉ ổi vô liêm sỉ. Tôi quay vào nhưng ánh mắt
của chú bán vé số đượm buồn chan chứa
lời cám ơn đã làm tôi khựng lại. Chú nói như
khóc mắt cụp xuống:
- Chú mua giúp cháu ít vé đi chú. Giọng van nài níu kéo
gọi mời. Tôi ủi an nhẹ như sóng đêm tràn
về:
- Vào nhà đi cháu.
Chú vé số theo sau. Người
chú lắc giật. Chân phải bị co rút lại nhỏ
thó. Còn tôi vịn vào tủ kệ lần mò chễm chệ
nơi ghế. Tôi chỉ chiếc ghế nhựa đã hoen
ố. Anh sáng đèn néon đủ nhận diện
người đối diện. Khuôn mặt hốc hác. Hai
mắt lõm sâu. Anh nhìn như lạc hướng. Mầu
tròng trắng lấn át màu đen sắc sảo. Da mầu
hăng hắc dưới nắng. Quần áo mặc trên
người bốc mùi và nhầu nát. Thân hình gầy đét.
Tôi vào đề:
- Cháu tên gì ?
- Cháu tên Trần văn An, 30 tuổi, trình độ
văn hóa hết lớp 5 phổ cập còn độc thân
– Chú đọc như khai lý lịch trước cán bộ.
- Gia đình cháu ra sao? - Tôi thật nhẹ mớm An
bớt đi xa lạ.
- Chưa đủ một tuổi, mẹ cháu mất
vì ung thư chỗ đẻ. Còn cháu, khi mới sinh, chân
phải đã co rút lại và lặc lè từ đó. Ba cháu
vất vả nuôi 7 chị em nheo nhóc. Nhiều lần ba
vẫn than: “biết thế chẳng cần chạy theo
lương con làm gì khi còn trong lính. Con nhiều lĩnh
lương nhiều. Nhưng nay thì làm “dân biểu”,
khách sai chở đi đâu đến dó, vẩn chỉ
nuôi được thằng cha chứ làm gì nuôi
được thằng con.” Thế rồi ba cháu cũng
lâm bệnh xuất huyết cấp tính khi cháu tròn 18 . -
Tôi ngắt lời An khi đôi
mắt đỏ ngầu, khi giọng nói nghèn nghẹn.
Ngoài trời có tia chớp. Mây van vũ hoảng loạn.
- An đã bán được nhiều chưa? Sao còn
nhiều thế?
Vừa nói tôi vừa nhìn vào bàn tay
phải đen đúa vẫn ôm khư khư chắc
nịch xấp vé số được cột chặt
bằng một sợi thung mỏng manh. Tay trái giữ
chặt chiếc cặp nhỏ mầu da bò để nhét
tiền và những gì thân thiết nhất cho một kẻ
hầu như suốt ngày lang thang kiếm ăn trên
đường. Tư thế tự vệ cố hữu
của người kém may mắn rong đuổi
đường đời.
- Đã bán được tờ nào đâu chú. Bọn
họ chỉ dò số đánh đề thôi. Chú mở hàng
cho cháu vài tờ nhé?
Lúc
này An đã bình tâm. An cũng khéo nói như là ngón nghề
đòi hỏi phải thế. An mời chào thêm lần
nữa nhưng tâm lý hơn:
– Chú mà mua chắc cháu sẽ đắt hàng lắm
đây.
Tôi thầm khen An chịu khó
lăn lội vào nghề. Nhiều lúc bầm dập khi mà
hằng ngày tôi vẫn nghe bọn lưu manh thường
nhắm vào kẻ khốn cùng để quỵt, để
giật, để lừa. An không trên đau khổ của
người khác. Đôi khi còn bị xe tông và quẹt
nhưng cuối cùng người tật nguyền vẫn
thiệt thân. Tôi cảm thông nhận xấp vé trên tay
rồi rút ra vài tờ. Tôi xoa dịu:
- Nếu chú mở hàng đắt thật sự, An có
muốn chú mua mỗi ngày nữa không?
- Có chứ. Bởi mua mau bán đắt là điều
ước của người buôn. Thế nên người
mua mau mắn cũng dễ chịu vô cùng khiến cả
ngày như gặp may. - An nói như người sành
điệu. Tôi khai thác sự lanh lẹ đó:
- Cháu đã bán được bao lâu rồi?
- Đã nhiều năm nhưng . . . hay bị gián
đoạn lắm. - An ngập ngừng.
- Sao lại thế? - Tôi như người bị
cuốn hút vào câu chuyện có hơi hướm ly kỳ
lạ lẫm.
- Bị bọn xấu đi xe máy láng coóng trên
đường chộp giật rồi chuồn. Thế là
mất vốn. Khóc lóc riết cũng chẳng ra làm sao
rồi lại xoay đổi cách sống không vốn.
Đi bán rau củ cho chủ hàng kiếm miếng ăn và
huê hồng. Cứ thế mà tăng dần vốn. Khi nào
vốn đủ 100 tờ số lại lăng
quăng ra đường hút bụi và dè chừng những
kẻ khốn nạn giựt dọc. Mặc cho
đời lăn lóc. Riết rồi cũng quen, chú ạ.
Vừa nói An vừa đảo
mắt sòng sọc. Lông mày nhíu xoắn lại biểu
lộ sự căm giận cũng căng thẳng không ít.
Miệng không hé rộng. Môi mỏng dính. Giọng đanh
thép. Nghe như có tiếng rít trong răng nghiến lại.
Chiều đã xuống thật thấp. Gió lạnh xóa tan
nhanh bầu trời đục gầm rú trước
đó. Tôi nghe xát muối trong lòng. Chắc rằng trong ngõ
ngách u tối của tâm hồn mộc mạc và ngây thơ
có một nổi hận nào đó đang chất chứa.
Tôi không muốn nghe An bực dọc trong khi xấp vé
số còn cộm cứng. Tôi an ủi vu vơ:
- Ác giả ác báo mà! Thôi An đi bán tiếp nhé. Nếu
đắt hàng, ngày mai ghé lại chú hưởng ứng cho.
- Tôi nói để xoa dịu bâng quơ nhưng trong sâu
thẳm tôi thấy mình như giả dối với chính
mình.
- Ngày mai cháu lại đến vậy.
Nói rồi An cúi xuống
nhặt chiếc dép nhựa trắng đã gáu bẩn và
mòn choe choét nơi những ngón chân, rồi xỏ vào bàn chân
phải dại khờ tím tái. Lúc này tôi mới chú ý
đến chuỗi tràng hạt dạ quang rơi ra
khỏi cổ áo. Đúng là cuộc đời như
một sâu chuỗi những sự kiện được
thắt gúc lại. Miệng tôi đắng nghét khi nhìn
những bước chân của An lắc giật mạnh
đến nỗi con thuyền An như đang chòng chành
chống chọi lại với bão giông biển đời.
Đêm tối đang bao phủ liệu An có bình yên trở
về!
Năm ngày trôi qua.
Những hạt kết tụ
lại thành sâu chuỗi của đời An sần sùi thô
ráp với những ngày tháng u tối mờ mịt. Sinh ra
đã tật nguyền. Chưa bước đi đã
mất mẹ dắt dìu. Mười tuổi vẫn
chưa cắp sách đến trường. Tuổi
mười lăm mới ê a con chữ trong những
buổi tối muộn màng. Cha mất. Anh em giành nhau
phần hơn đã đẩy An vào đời lặng
lẽ buồn tênh. Giành giật kiếm sống bằng
lòng thương hại của con buôn. Đánh đổi
sức vóc lê lết kiếm cơm manh áo đến
trầy trụa rướm máu. An cắn răng tạo
dựng bằng những đồng tiền bố thí.
Để rồi ti toe với những tấm vé số làm
hành trang tự lập. Chưa đầy năm tháng
liếm bụi đường đã trắng tay. Một
kẻ bất lương trong bộ vó đại gia vô
lương tâm cướp đi đồng vốn đã
bào mòn thân xác bầm giập. Sự chịu đựng tàn
nhẫn từ khi mới lọt lòng. Nước mắt
đã thôi rơi. Cạn khô. Kiên nhẫn là đức tính
tồn tại lâu đời nhất cho người tàn
tật. An nghiệm ra rằng cay đắng vốn dĩ
là thước đo lòng người vượt qua số
phận khắc nghiệt. An lại lao vào làm cu li cho lái buôn
tìm đồng vốn nhặt nhạnh. Nhưng hôm ấy
với tám mươi tờ vé số An lại mời chào
rồi lại mời chào. Quán nào An chẳng ghé.
Người nào An chẳng bắt chuyện. Miệng
lưỡi dẻo quẹo. Trên lề đường lởm
chởm lồi lõm đá dăm, An thất thểu. Bỗng
chiếc xe hai bánh mới cáo ngừng lại. Chàng thanh niên
bảnh bao quần jean xanh áo pull mầu cam nhạt vẫn
ngồi chễm chệ trên xe đang nổ máy. Mắt
đeo kiếng râm mờ trông thật bảnh choẹ.
Mồm mép oai phong ra lệnh cho An ngừng lại:
- Ê! Nhãi ranh! Còn cặp nào đẹp không đưa
cho anh Hai đắt hàng cho. - An mừng quýnh khi nhìn chàng trai
có bộ vó nhà giầu. An cười reo:
- Anh Hai mà mua cho thì còn gì bằng. - An vừa nói tay
vừa như cung kính thưa gửi. Mắt bừng sáng.
Đầu liến thoắng: “An gặp khách sộp
rồi, cám ơn Trời Phật”.
Người khách nhận cọc
vé số. Lựa ra hai cặp số ưng ý. Mỗi
cặp hai mươi tờ kẹp riêng ra đặt lên
phía trên cọc số còn tinh nguyên. Miệng choai choải
đón đưa:
- Đẹp tuyệt ! Mày tốt số mới
gặp đại ca đấy.
- Thật phước cho em, thưa đại ca. -
Chàng quí tử đưa cho An số tiền ứng với
hai mươi tờ vé rồi nhét xấp vé vào túi quần.
Như ngập ngừng, chàng ta, sau thoáng suy tư, ra dấu
cho An ngừng lại khi An vừa định quay gót. Chàng
liến thoắng:
- Này nhỏ, cho đại ca đổi cặp khác
đi, số này thế nào ấy! Nói xong hắn móc từ
túi quần ra xấp vé số khác đổi lấy hai
mươi tờ mà hắn đã kẹp riêng. Mọi thao
tác nhuần nhuyễn và nhanh gọn như diễn viên
xiếc thành thạo. Hắn rồ máy phóng đi vẫn
không quên thòng lai phía sau: “chúc nhỏ may mắn nhé!”.
An nhìn theo. Mắt có đuôi. Chúm
chím cười. Đèn đường đã bật.
Mầu sáng trắng đục như sương phủ.
An hân hoan tiếp bước. Lòng thầm thì: “Quá hên! Quá
trời hên!” An lủi vào một quán nước hí hửng
mời khách trong quán. Hai người khách đang đấu
láo cũng không cầm lòng trước lời mời
với dáng đi xiêu vẹo đáng thương của An.
“Mua giúp đi anh Hai, anh Ba”. An chìa vé số trước
mặt khách vẻ van lơn. Người khách bỏ ngang
câu chuyện liếc qua cọc vé số ngăn nắp.
Đủng đà đủng đỉnh nhìn từng
cặp. Bất ngờ anh ta quát lớn:
- Thằng chó đểu! Mày bán vé số kiểu gì
đây, đồ con lừa! - An cuống lên nhìn cặp vé
số của khách trưng ra. Vé số của ngày hôm qua.
Mắt đỏ quạch. Rướm khóc. An lủi
thủi rời quán. Lòng căm phẫn. Một lời
giải thích cũng thừa. An đã bị lừa. Đổi
hai mươi tờ cũ lấy mới. Gian ác. Lọc
lừa ngọt sớt. Nhói đau. Tiền mất tật
mang. Hổ thẹn khi An chính là kẻ bị lừa. Ấy
vậy mà lại vô tình đi lừa người khác. Không
còn gì tê tái tủi nhục hơn thế nữa.
Bầu trời đổ sụp
trên đầu. Mắt hoa lên choáng váng. An bất thần
đổ nhào về phía trước khi chân vấp phải
cục đá tảng lăn lóc trên vẻ hè. Thần
sắc ủ rũ. Máu rỉ ra nơi đầu gối
chân lành lặn. Lết về được chiếc
xạp chợ làm giường thì đêm cũng đã
cạn dần. Ngày hôm sau An lên cơn sốt co ro nơi mái
hiên nhà gần đó. Rất may còn có đồng nghiệp
biết chuyện an ủi thuốc men. Sau nỗi đau
đắng chát cạn kiệt đó An chán nản khi con
người ta toàn là lũ người dưng. Anh em
ruột đẩy thằng út chân rưỡi xuống
đường ngủ bờ ngủ bụi. Kẻ
mạnh ức hiếp kẻ đầy đọa tật
nguyền. Lũ giầu tiền nhưng nghèo nhân ái không
thương xót người bần hàn. Phường buôn
lợi dụng người yếu thế. Lại có
cả đám hàm hồ vô tâm nói xóc, mánh khóe, góc cạnh.
Thế rồi An đành xin ẩn trú trong ngôi chùa từ
thiện dành cho người khuyết tật. An tìm
một công việc vừa học vừa làm đủ mong
tìm miếng cơm hàng ngày. Trong thế giới đồng
cảnh ngộ An cũng nguôi ngoai cơn đau nhớ
đời đã làm tâm hồn An sớm cạn khô khắc
khoải. An gần gũi rồi thân thiết với vài
bạn khiếm thị. Để chan hòa với các
bạn, An đã nhiệt tình dẫn đường giúp
họ mỗi khi họ đi dự thánh lễ vào những
ngày chủ nhật. Trong ngôi nhà thờ ấm cúng và nghiêm
trang, An tự hỏi khi nhìn thấy các bạn cung kính
chấp tay hướng về bàn thờ: “Trong những giây
phút trầm lắng đọng suy tư này không biết các
bạn đang thầm thì điều gì với
Người Chịu Nạn trên cao chót vót nơi kia. Chỉ
nhìn thấy họ cung kính. Tay chắp lại hiền
dịu. Khuôn mặt rạng rỡ. Miệng lẩm
nhẩm. Đôi mắt mù lòa ngước lên cao dù chưa bao
giờ nhìn được hình ảnh Người bị
chết thê thảm trên đó. Sao ta như bị cuốn hút
vào nơi tĩnh lặng thần thánh sâu xa cùng họ.
Cuộc đời tan biến đâu mất trong thinh không.
Thật lạ kỳ cái giây phút huyền diệu dấu ái
này”. Với suy tư khập khiễng này buộc An tìm
hiểu và đặt ra với Định một trong
những người bạn khiếm thính. Định
thiện tâm giải thích:
- Khi bạn mệt mỏi, khi bạn mất
phương hướng hay khi bạn đau khổ,
bạn hãy lặng thinh ngắm nhìn hình ảnh đau
đớn tận cùng của Chúa trên thánh giá bạn sẽ
thấy đớn đau chán chường của mình
chẳng thấm vào đâu. Lúc này bạn sẽ thấy quên
đi mọi nỗi gian nan. Rồi thì sau đó là sự
bình an. Vô cùng sảng khoái. Nhưng mà bạn chưa thấu
hiểu được tâm trạng diệu kỳ này
nếu bạn chưa biết Chúa của chúng tớ là ai
đâu”. An thắc mắc trong sự cuốn hút khá lắng
đọng:
- Thế Chúa ấy là ai? Làm sao biết
được?
- Tớ sẽ giới thiệu bạn với
một chị Giáo Lý viên. Chị này sẽ giảng giải
cho bạn cặn kẽ hơn. Bạn đồng ý
chứ ?
Sau đó ít lâu, An theo học khóa giáo
lý tân tòng. An được chị giáo lý viên và các bạn mù
hướng dẫn giúp đở kể cả vật
chất. Chị tìm cho An một người đỡ
đầu đạo đức và khá giả để có
điều kiện nâng đỡ An khi gặp khó khăn.
Sau ba tháng miệt mài học giáo lý, An được cha
xứ cho chịu phép rửa. Từ đó mà An luôn mang theo
mình chuỗi tràng hạt dạ quang. Cuộc đời
đúng là một xâu chuỗi những biến cố.
Với An xâu chuỗi này được kết nối
lại với thánh giá mà An hằng ngày nâng niu nơi vòng
cổ của mình.
Trong đêm sâu, sự linh cảm
của tôi sao diệu vợi đến thế! Thật
nhiệm mầu! “Chén cơm giáng sinh” mà anh em đang ra
sức nâng niu, đang ân cần tha thiết kêu gọi
để cùng nhau chia sẻ với những người
bất hạnh như được bàn tay Chúa nâng
đỡ. ”Bỏ bao nhiêu yêu thương vào việc mình
làm“ là động lực thúc đẩy tôi đi tới. Và
Chúa đã lắng nghe.
Sau khi được nghe câu
chuyện về An, tôi say mê tìm những quần áo cũ
nơi những người thân yêu khác vì “Ta trần
truồng các con cho mặc”. Để rồi cũng một
buổi chiều muộn, An đến với tôi. Nơi
chiếc ghế đối diện, An khoan thai nhìn tôi,
mắt đã đen nhánh hơn:
- Chú thấy cháu có chân thành không?
- Cháu rất can đảm trong cuộc sống không
may nhưng cũng vô cùng diễm phúc trong ơn lành của
Chúa. Cháu đã nhớ tên thánh của cháu khi rửa tội
là ai chưa?
Tôi khâm phục An trước
thật nhiều những bất trắc để rồi
vẫn lao vào với đời. An không nhớ tên thánh
của mình khi tôi hỏi vào ngày hôm trước. Nay An
đưa cho tôi bảng tên thánh mà vào ngày chịu phép
rửa anh chị giáo lý viên gắn nơi ngực. An nói
trong chút ân hận:
- Ông thánh này đọc thế nào chú?
- Phanxicô Xaviê. Cháu nhớ được chứ?
- Chưa chắc lắm. Sẽ cố gắng thôi.
- Hiện nay cháu đủ vốn mua số chưa?
Và ai giúp cháu số vốn đó?
- Dạ, ông bố đỡ đầu cho đủ
mua 150 vé. Với tiền lãi cháu cũng trả
được tiền nhà và ăn uống.
Nhìn
bộ quần áo An mặc vẫn rách rưới bẩn
thỉu tôi xót xa. Tôi thận trọng muốn giúp đỡ
khi tôi đã chuẩn bị. Tôi chia sẻ thật tâm:
- Hôm nay chú giúp cháu mấy bộ quần áo để
thay đổi. Trong đó có một bộ còn mới nguyên
để cháu mặc mỗi khi đi dự lễ nhé!
-Vừa nói tôi vừa trao cho An túi xách bằng nylon .
- Thật cám ơn chú rất nhiều. Cháu sẽ có
quần áo mới đi dự lễ Giáng Sinh.
- Còn vốn thì thế nào, đã đủ chưa?
- Dạ lúc này thì vừa nhưng chỉ sợ
lại bị lừa như trước kia.
- Cố gắng thận trọng. Làm sao tránh
được những kẻ gian đội lốt thánh
phật đầy dẫy trên đường đời.
Khi nào hụt vốn cháu cho chú biết nhé. Biết đâu
chú giúp được.
An
cười. Nụ cười thật ấn tượng.
Ngây thơ. Trong sáng. Hiền lành. Trước khi chia tay, tôi
mua cho An mấy tờ số. An bước đi vẫn
lặc lè. Nay xộc xệch vẹo vọ hơn khi
phải mang theo túi quần áo. Ngoài trời mát dịu.
Chỉ còn một vài ngày nữa, Chúa sẽ đến
với nhân loại. Mong sao đêm nay An về quán trọ
bình an. Để rồi An cùng chung vui với mọi
người mà hát vang lên:
“Vinh Danh Thiên
Chúa trên trời,
Bình an
dưới thế cho người Chúa thương!”
Saigon, Mừng Giáng Sinh 2008
Phêrô Vũ
văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com
|