MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Thị Kiến Về Giáng Sinh Theo Chân Phước Ann Catherine Emmerich
Thứ Năm, Ngày 25 tháng 12-2008
THỊ KIẾN VỀ GIÁNG SINH THEO CHÂN PHƯỚC ANN CATHERINE EMMERICH

nguồn : http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=5812 

 Anne Catherine Emmerich sinh năm 1774 và mất  ngày 09. 02. 1824, tại Westphalie, Đức.  Được Chúa ban đặc ân in các dấu thánh trên mình, Bà mang những dấu ấy và nằm liệt giường cho tới ngày qua đời.  Là nhà tu hành theo đường huyền niệm, bà có huyền năng và trong nhiều cơn xuất thần, Bà được Chúa cho thấy mọi sự từ thuở loài người được tạo nên, sống trong vườn địa đàng, rồi lỗi nghĩa cùng Chúa, v. . v. .  cho đến mọi chi tiết trong đời Chúa Giêsu và Đức Nữ Trinh Maria.  Sau đây là trích đọan những gì xãy ra xung quanh dịp Chúa Giáng Sinh, ghi lại trong cuốn “Vie de la Sainte Vierge”.   

Trong nghi lễ tôn phong Chân Phước ANNE-CATHERINE EMMERICH vào ngày 03. 10. 2004, Đức Thánh Cha Gioan- Phaolô đã nhấn mạnh rằng vị huyền-niệm người Đức nầy rút sức mạnh từ Thánh Thể.  Ngài nói rằng Vị huyền-niệm nầy đã chịu đựng trong thân thể mình “cuộc Khổ Nạn đắng cay của Chúa Giêsu Kitô”.  Là con của những nông-dân nghèo vùng Munster, Chị đã sốt mến kiếm tìm được “gần gụi mật thiết với Thiên Chúa”,  những mong sao “công trình vinh quang Thiên Chúa” thực hiện nơi Người.  Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “sự nghèo nàn vật chất” và “sự giàu có đời sống nội tâm”.

CHUẨN BỊ CHO NGÀY SINH

   Đã từ nhiều ngày qua, Đức Mẹ lưu lại luôn tại nhà bà Thánh Anna và thường ở sát cạnh thân mẫu Người. Nhà Thánh Anna ở trong thung lũng Zabulon, cách xa thành Nazaret không tới một dặm. Thánh Anna đã phái một nữ tì từ Zabulon tới Nazaret, ở lại luôn nhà của Thánh gia thất, để trông coi nhà cửa và sau nầy phục dịch Thánh Giuse trong khi Đức Mẹ đi vắng.  Xưa nay Thánh-Gia và gia đình bà Thánh Anna vốn liên-lạc với nhau mật thiết, hai nhà gần như là một.

   Từ nửa tháng nay, Đức Mẹ bận rộn chuẩn bị cho ngày Chúa Con ra đời: Người sửa sọan sẵn chăn mền, bông băng và khăn áo.  Không thấy bóng dáng Thánh Joachim đâu cả.  Trong nhà bà Thánh Anna, thấy một đứa bé gái chửng bảy tuổi, lúc nào cũng luẩn quẩn bên cạnh Đức Trinh Nữ.  Người dạy nó  mọi việc học hành: có lẽ nó là con của Bà Maria Cléophas,  chị gái Đức Bà. Con bé nầy cũng mang tên là Maria.

  Thánh Giuse thực ra lúc nầy cũng không ở Nazaret. Ngài đang ở Giêrusalem,  vì đã đưa các tế vật lên Đền Thờ.

   Đức Mẹ luôn luôn ở trong nhà.  Bụng Người lớn vượt mặt vì thai kỳ như đã trọn ngày rồi. Người ngồi trong một căn phòng cùng làm việc với mấy phụ nữ khác.  Bọn họ xúm lại chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho việc sinh nở của Đức Bà.  Thánh Anna là người có tài sản lớn, gồm nhiều đàn súc vật và những cánh đồng cỏ rộng.  Bà thừa sức cung ứng cho Con Gái mình không thiếu thứ gì.  Bà nghĩ là con sẽ sinh nở tại nhà mình. Họ hàng gần xa sẽ kéo đến mừng thăm đông đảo, cho nên Bà cho chuẩn bị mọi sự rất chu đáo, để long trọng đón Đúa Cháu Trời Hứa nầy. Người ta đã liệu sẵn tấm mền đặc biệt rất đẹp và những chiếc thảm sặc sỡ.

   Tại nhà bà Elisabeth, vào dịp Thánh Gioan Tiền Hô sinh ra, cũng thấy có một chiếc mền giống như vậy. Trên mền có vẽ những hình biểu tượng, nhưng câu châm ngôn thêu bằng kim tuyến. Phần giữa mền được làm giống như cái bao bì, trong đó là chổ để sản phục nằm;xung quanh có nhiều mẫu dây và nút để cột sản phụ, giống như cột một hài nhi nằm trong tả cuốn của nó vậy. Sản phụ nằm như thế, có gối đỡ đầu và từ vai trở ra ở ngòai bao, nên cử động rất thong thả, khách tới thăm ngồi ở thảm,  sản phụ tiếp họ dễ dàng.  Người trong nhà thánh Anna còn chuẩn bị đủ thứ đồ khác nữa. Họ trang trí khắp nhà bằng những sợi kim tuyến, ngân tuyến. Không phải sự chuẩn bị chỉ nhắm riêng cho sản phụ, mà còn chẩun bị nhiều thứ cho kẻ khó, là những người vốn thường được nghĩ tới trong các dịp như vậy.  

   Đức Mẹ và một số phụ nữ ngồi ngay trên nền nhà, chung quanh một cái giường lớn, bên trên có để tấm mền rộng. Mọi người đang cùng nhau dùng chỉ màu đính những vật trang trí chiếc “mền sản phụ” ấy. Bà Thánh Anna xem ra rất bận rộn, lăng xăng đi khắp nhà, lúc khi tìm những cuộn len, khi lại tìm chỉ, đẻm phân phối và tiếp tế cho các nữ tì và phụ nữ đang cùng Đức Mẹ trang trí chiếc mền đặc biệt.

   Theo dự tính, hôm nay Thánh Giuse đáng lý đã phải về tới Nazaret rồi,  nhưng ông vẫn còn ở Giêrusalem.  Ông dẫn đàn súc vật chọn làm tế-sinh lên Đền Thờ, nhưng không tới thẳng ngay, mà đi quá Giêrusalem chừng một phần tư dặm về phía Bê-Lem. Ông nhốt những con vật tế ấy vào một chổ,  nhờ một bà góa già không con cái trông coi giùm. Bà lão thuộc lọai những người đạo đức, ai muốn nhở vả thế nào cũng sẵn lòng đáp ứng thỏa đáng.

  Tiện đường tiện dịp, Thánh Giuse xuống luôn tới Bê-Lem, nhưng chỉ quanh quẩn trong thành, chứ chẳng ghé thăm nhà bà con, dù ở đây ông có rất đông bà con, bạn bè.  Mục đích của ông ché Bê-Lem cốt để hỏi thăm tin tức về vụ kiểm kê dân số và thu thuế thân kỳ nầy ra sao, mà mọi người ai nấy đều phải thi hành tại nguyên quán của mình.  Ông chưa có ý thi hành ngay việc đăng ký nầy, vì ông muốn đợi cho Đức Mẹ sinh nở êm thắm, trải hết thời gian kiêng cử luật định, lúc đó ông sẽ đưa Đức Bà từ Nazaret lên Đền Thờ dâng lễ thanh tẩy, rồi mới xuống Bê-lem thi hành việc đăng ký nhân khẩu và thuế bộ.  Nhân tiện đến Bê-lem, ông cũng thăm luôn giá cả các lọai gỗ và đá, vì ông dự tính cất một căn nhà ngay tại Bê-Lem, sau đó đưa gia đình rời Nazaret về đây ở.  Ông không thích ở tại Nazaret nữa. Chớp nhóang thăm hỏi mọi việc xong xuôi, từ Bê-l3m ông quay lại Giêrusalem, ghé vào nhà bà góa dắt mấy con vật tế thần, dẫn lên Đền Thờ giao nạp, rồi ngược đường trở về Nazaret.

    Vào lối nửa đêm hôm nay, đang khi Thánh Giuse đi qua cánh đồng Khimki (Ghinim), chỉ còn cách Nazaret vào khỏang sáu dặm, bỗng một vị thiên-sứ hiện đến bảo ông phải tức tốc đưa Đức Mẹ rời Nazaret xuống Bê-lem, vì chính tại đó Đức Maria sẽ hạ sinh Con mình. Thiên sứ cũng kể ra những thứ Thánh Giuse nên mang theo trên đường đưa Đức Mẹ về Bê-lem: ông phải mang rất ít đồ đạc và tuyệt đối không được đem theo chiếc mền thêu nào cả. Ông phải kiếm một con lừa lớn cho Đức Maria cưỡi, lại phải có một con lừa cái nhỏ, mới một tuổi và chưa đẻ con;dọc đường cứ để con lừa con ấy chạy tung tăng tùy thích, và ông phải theo lối nó dẫn đi.  

   Cũng chiều hôm ấy, Thánh Anna cùng Đức Maria rời Zabulon về lại Nazaret. Hai Vị biết Thánh Giuse đã về tới nhà. Thánh Anna hòan tòan không biết việc Đức Maria phải đi Bê-lem ngay, mà chỉ cho rằng con gái mình sẽ sinh nở ở Nazaret hoặc tại nhà mình. Vì thế, bà đã cho mang về Nazaret rất nhiều thứ, y như đã được chuẩn bị cho việc Đức Maria sinh nở ở Zabulon vậy. Cũng ngay chiều hôm ấy, Thánh Giuse về tới nhà.  Lập tức, ông trình bày cho Đức Maria và Thánh Anna biết chuyện xãy ra dọc đường và thuật rõ lệnh truyền của thiên sứ. Đức Maria liền cùng Thánh Giuse và mẹ mình quay lại nhà Thánh Anna ở Zabulon, để kịp chuẩn bị lên đường đi Bê-lem liền.  Thánh Anna tỏ ra buồn sầu lo lắng lắm. Đức Mẹ thì trong lòng đã biết mình sẽ hạ sinh Quý Tử tại Bê-lem, nhưng vì đức khiêm-nhường, Người chẳng hề hé ra điều nầy với ai.  Đức Mẹ hiểu điều đó qua những lời sứ ngôn về Đấng Cứu Thế. Người đã được học hỏi những điều nầy khi còn là trinh nữ nội trú trong Đền Thờ Giêrusalem; những phụ nữ thánh thiện là giáo sư tại Viện Trinh-Nữ của Đền Thờ, đã giảng giải cho Đức Mẹ, và hằng cầu nguyện cho điều đó mau chóng thành hiện thực.  Lòng khát khao tột độ của họ cầu moing cho Đấng Cứu Thế mau tới; họ gọi người cưu mang Ngài là Kẻ Có Phúc; họ khát khao được làm tôi đòi hèn mọn nhất trong những tôi tớ của Mẹ Đấng Cứu Nhân Lọai

   Về phần mình, do đức khiêm cung, Mẹ Maria không khi nào tỏ lộ niềm vinh phúc nầy, lòng chỉ đinh ninh sẽ sinh Con mình tại Bê-lem, nên sau khi nghe Thánh Giuse thuật lệnh của thiên sứ, vừa quay lại nhà mẫu thân ở Zabulon, Đức Maria vội vã thu dọn hành trang, đơn giản, đúng theo lệnh truyền,  để có thể khởi hành liền, dù thời tiết đang lúc khắc nghiệt, những cơn gió lạnh bất thần tràn về trên đường thiên lý băng đồn vuợt  núi về Bê-lem, nhưng Đức Maria trong thâm tâm vẫn hoan hỹ vô chừng.

HÀNH-TRÌNH BÊ-LEM

    Rồi ngay chiều hôm ấy, đòan người gồm Đức Maria, Thánh Giuse, có Thánh Anna, cô bé Maria Cleophas và một đám gia nhân đi tiễn chân, rời nhà Thánh Anna lên đường đi Bê-lem.  Đức Maria thì ngồi trên lưng một con lừa lớn và một con lừa lớn khác được dắt theo để thánh Anna cưỡi trở lại nhà, sau đọan đường tiễn biệt Con Gái mình. Đòan người rong ruổi suốt đêm không ngưng nghỉ.  Sáng hôm sau, đòan người của Đức Bà và Thánh Giuse đã đi xa Nazaret được sáu dặm (mỗi dặm ở đây là 4 cây số); họ tới cánh đồng Ghinim, nơi Thánh Giuse nhận lệnh Thiên sứ mới đêm hôm kia. Ở đây Thánh Anna cũng có một cánh đồng cỏ rất lớn và cơ sở la liệt với đông đảo người nhà. Bọn người làm liền đi bắt một con lừa cái nhỏ một tuổi, để nó đi theo thánh-gia xuôi về Bê-lem. Đòan người nghỉ ngơi ở đây, rồi Thánh Giuse đưa Đức Mẹ tiếp tục lên đường,  trong khi Thánh Anna nghỉ lại trại Ghinim, sau đó cưỡi lừa,  đưa đưa cháu ngọai Maria Cléophas cùng bọn tùy tùnh quay trở lại Zabulon.

   Đức Maria và Thánh Giuse lầm-lủi thư thả trên đường xuôi về Bê-lem.  Hai Vị bỏ Ghinim sau lưng đã xa và đi vào con đường sơn đạo dẫn tới núi Gelboe. Thánh gia không vào thị thành nào cả, mà chỉ đi theo lối con lừa con dẫn đường. Con lừa nhỏ nầy cứ chạy theo những ngả ngang, tắt, chứ không đi theo đường chính dẫn qua các thị trấn. Vì thế, Thánh Gia đã đi băng qua ngả dẫn vào trang trại của Lazarô, tọa lạc không xa Ghinim bao nhiêu, mà cũng gần với xứ Samaria.

  Người quản gia trang trại Lazarô đón tiếp Thánh gia rất nồng hậu, vì ông ta đã từng biết Đức Maria và Thánh Giuse trong một cuộc hành trình khác trước đây.  Vả lại gia đình Thánh Giuse cũng như gia đình Thánh Anna vốn có đi lại với ông Lazarô rồi.  Trang trại Lazarô trồng la liệt cây cối và có đường ngang lối dọc, lại tọa lạc trên một độ khá cao, từ đó có thể nhìn bao quát rộng rãi cả vùng xung quanh được rõ ràng.  Cơ sở nầy do người cha để lại cho Lazarô.  Sau nầy, khi bôn ba giảng đạo, Chúa Giêsu vẫn thường qua lại và nghỉ chân tại nơi đây.

   Vợ chồng người quản gia hết sức niềm nở với Đức Maria: họ vô cùng bở ngỡ và lo ngại cho Đức Mẹ, phải trải qua một cuộc hành trình vất vả,  trong khi lại ở cuối thời kỳ thai nghén như thế.  Giá như cứ ở lại nhà Thánh Anna thì bình yên và bảo đảm biết bao!

   Tiếp tục hành trình, Thánh Gia đã đi được nhiều dặm cách xa trang-trại Lazarô, dù ban đêm cũng vẫn không ngừng bước. Lúc  nầy đang đêm,  Thánh Gia tiến tới một ngọn núi chạy dọc theo một thung lũng lộng gió và giá rét, tuyết đã đóng trắng trên đầu ngọn cỏ. Đức Maria thấy giá lạnh nhiều, liền tỏ ý với Thánh Giuse nên ngừng lại, vì Người không còn chịu lạnh thêm được nữa.  Đức Mẹ vừa đề nghị như thế, thì con lừa con đã ngừng ngay bên một gốc lão tùng gần đấy. Thánh Gia đã trú lạnh qua đêm dưới gốc cây tùng già ngàn năm tuổi nầy.

   Lọai tùng vạn niên nầy có một lịch sử đáng nhớ.  Nó mọc nhiều ở rừng Moreh gần Sichem.  Khi Abraham từ đất Canaan tới, ông đã thấy Thiên Chúa  hiện ra ở đó, hứa ban cho ông dải đất phì nhiêu nầu. Ông đã lập bàn thờ dưới gốc cây vạn-niên-tùng để tạ ơn. Gia-cóp trước khi đi Betel để dâng lễ tạ ơn lên Thiên Chúa, đã chôn dầu dưới gốc vạn-niên-tùng từng thứ thờ cúng nhảm nhí của Liban và đồ tế nhuyển của gia đình mình.  Josuê đã dựng nhà tạm bên gốc vạn-niên-tùng để đặt Hòm Bia Thánh và tập hợp dân chúng khỏi thờ dối trá. Cũng dưới gốc một vạn-niên-tùng, con trai của Gedéon là Abimelech đã được dân Sichem tôn vương.

   Vẫn trên đường về Bê-lem, Thánh Gia tới một nông trại lớn, ở cách xa chổ cây vạn-niên-tùng chừng hai dặm. Bà chủ nông trại vắng nhà, ông chủ từ chối không tiếp Thánh Giuse, nói rằng ông nên đi tiếp xa hơn chút nữa,  sẽ có chổ nghỉ.  Đức Bà và Thánh Giuse đi thêm một quảng thì thấy con lừa con dẫn đường ở gần lều của những người mục-đồng, nên hai Vị cũng vào đó xin nghhỉ ngơi. Mấy chàng mục đồng lúc đó đang hì hục quét dọn lều, thấy khách lữ hành tới, đã tiếp đón Thánh Gia rất đàng hòang. Bọn họ nhường cho hai Vị mớ rơm khô để trải chổ nằm, chia cho mấy mảnh chiếu để nhóm lửa.  Bọn mục đồng nầy trở về nông trại, thuật lại cho bà chủ phong thái đạo hạnh của Thánh Giuse và sự xinh đẹp thánh thiện tuyệt vời của Đức Mẹ, làm bà chủ nông trại nổi giận, quay sang phiền trách ông chồng đã bất nhân xua đuổi những lữ khách qúy hóa ấy.  Rồi bà ta hối-hả chạy tới túp lều nơi Thánh Gia tá túc, nhưng không dám bước vào vì e thẹn,  lại quay về trại kiếm một ít đồ ăn mang đến.  (Nơi mà Thánh Gia đang dừng chân, chỉ mới cách Nazaret chừng mười hai dặm mà thôi. Địa điểm nầy nằm ở sườn phía Bắc một trái núi, ở gần biên giới xứ Samaria và Thébez. Về phía Đông địa điểm nầy, nằm bên kia sông Giođanô là Succoth; còn Ainon thì cũng ở phía đó, nhưng lui lui xuống giữa một chút; Salem cũng ở trong vùng đất nầy. Từ đây về Nazaret, theo đường chim bay cũng chỉ vào khỏang mười hai dặm mà thôi).

  Chỉ một lát sau, bà chủ nông trại dẫn hai người con của bà tới lều Thánh Gia đang nghỉ chân;mẹ con họ đem theo đồ ăn thức uống.  Bà ta chân thành cáo lỗi và tỏ ra rất xúc động nhìn thấy hòan cảnh của Thánh Gia đang trải qua. Khi Đức Bà và Thánh Giuse vừa dùng bửa xong và đang nghỉ ngơi, thì ông chủ nông trại cũng tới. Ông ta xin lỗi Thánh Giuse vì đã khước từ không đón tiếp Người  tại nhà mình. Ông ta khuyên Thánh Gia tiếp tục đi lên đỉnh núi, chỉ chừng một dặm đường nữa mà thôi, thì sẽ gặp được chổ trọ tốt trước khi trời tối. Thánh Gia có thể nghỉ ngơi ở đó trong ngày Sabbat. Nghe vậy, Thánh Giuse liền tức khắc đưa Đức Mẹ lên đường cho kịp.  Hai Vị tiếp tục leo con đường dốc, lên tới đỉnh núi.  Tới nơi quả thấy một quán trọ bề ngòai xem ra khá khang trang, gồm nhiều ngôi nhà cất trên một khỏang đất phẳng, chung quanh khu quán trọ có vườn và cây cối bao bọc, có cả những cây hoa thơm. Quán nầy vẫn còn nằm về hướng Bắc của quả núi.

   Tới gần quán trọ, Đức Maria liền xuống lừa và đi bộ, Thánh Giuse dắt con vật đi theo. Vào tới chổ chủ quán, Thánh Giuse xin cho gia đình vào trú trọ, nhưng bị từ chối vì quán đã hết chổ. Bà vợ chủ quán nghe chồng từ chối,  liền chạy đến. Đức Maria chào và nhũa nhặn trình bày ý định xin trọ,  làm cho bà ta rất cảm động, cà đến ông chồng chủ quán cũng không sao từ chối được nữa. Vợ chồng ông liền dọn cho Thánh Gia một chổ trú tại căn lều gần đó, rồi dẫn lừa vào chuồng.  Con lừa con chạy biệt tăm ở đâu không biết. Những khi Thánh Gia dừng chân ở một nơi nào đó, thì nó biến đi luôn, cho đến khi lên đường là nó lại xuất hiện.

   Thánh Giuse thắp ngọn đèn cho sáng, rồi Người và Đức Trinh Nữ cùng nhau cầu nguyện hết sức sốt sắng, chiếu theo lề luật giữ ngày Sabbat của người Do-Thái.  Suốt ngày hôm sau, Thánh Gia nghỉ lễ tại căn lều trong khu quán trọ. Lúc nào Hai Vị cũng cầu nguyện chung. Người phụ nữ phục dịch trong quán thường đem ba đứa con của bà tới ngồi gần Đức Bà.  Bà vợ chủ quán cũng dắt hai đứa con của mình đến thăm Thánh Gia.  Họ ngồi cạnh Đức Mẹ với vẻ hết sức thân ái và tỏ ra vô cùng xúc động trước đức khiêm-nhường và sự khôn ngoan của Đức Bà.  Đức Maria thì chuyện trò với mấy đứa nhỏ.  Người dạy dỗ chúng nhiều điều.  Bọn trẻ có mang theo những cuộn kinh da bò nho nhỏ.  Đức Mẹ bảo chúng đọc lên, rồi Người giải thích cho chúng nghe. Đứa nào cũng hết sức chăm chú theo lời giảng giải, đến nỗi không đứa nào dám chớp mắt.  Nhìn thấy cảnh ấy đã xúc động,  nhưng nghe những lời giảng giải thì còn xúc động hơn nữa.

   Vào khỏang sau trưa, Thánh Giuse ra ngòai vườn đi dạo với người chủ quán. Ông ta dẫn thánh nhân xem vườn tược và đồng áng, trình bày, giải thích rất ngon lành. Trong ngày sabbat, người Do Thái đạo đức xưa vốn có thói quen làm như vậy.

   Thánh Gia nghỉ lại khu quán trọ thêm một đêm nữa, rồi mới lên đường.  Mọi người trong quán đều nhất lọat tiếp đãi hai Vị khách qúy, nhất là riêng Đức Maria, một cách nồng hậu vô cùng.  Họ nài xin Thánh Gia ở lại thêm với họ vài ngày nữa.  Họ dọn sẵn một căn phòng khang trang để xin Thánh Gia ở. Bà chủ quán tỏ lòng nhiệt thành tột độ và ước ao đưỡc dăn sóc hết mình cho Đức Bà. Nhưng Thánh Gia cám ơn và nhẹ nhàng khéo lèo từ chối, để lên đường.  Hai Vị theo ngả Đông-Nam ngọn núi đi xuống một vùng thung lũng.  Càng đi, Hai Vị càng xa dần xứ Samaria là vùng họ va đi qua.  Khi đi xuống, nhìn về phía núi Garizim, hai Vị đã có thể thấy Đền Thờ.  Vì tọa lạc trên núi,  Đền Thờ có thể nhìn thấy từ rất xa.  Trên mái Đền Thờ, dưới ánh mặt trời, những hình sư tử và các giống vật khác hiện lên khá rõ ràng.

  Ngày hôm nay Thánh Gia đi được khỏang sáu dặm nữa. Buổi chiều, hai Vị vào tới một vùng đồng bằng tọa lạc chừng một dặm về phía Đông Nam Sichem.  Thánh Gia vào một ngôi nhà khá lớn của một người làm nghề nuôi chiên và được tiếp đón niềm nở.  Người chủ nhà làm quản lý trông coi cây cối, đồng áng của một điền chủ cự phú cư ngụ ở tỉnh khác.  Ngôi nhà mà Thánh Gia vào không hòan tòan nằm trên đất bằng, nhưng lại cắt ở sườn đất dốc.  Khu đồng bằng nầy xem ra phì nhiêu hơn những vùng đất Thánh Gia đã đi qua, vì ở đây thế đất hứng được trọn ánh mặt trời.  Từ đây tới Bê-lem, còn nhiều nhà người chăn cừu khác, giống như nhà nầy, nằm rải rác trong các thung lũng.

   Sau nầy nhiều gia nhân tùy tùng của ba Vua tới thờ lạy Chúa Giêsu, không theo nhà vua trở về bản hương, mà ở lại đây, lấy vợ người địa phương. Trong số nầy có một gia đình có người con trai bị bệnh nặng,  được Chúa Giêsu chữa khỏi trong thời gian năm thứ nhì khi Chúa ra giảng đạo, sau lúc Chúa giảng dạy người phụ nữ Samaria bên bờ giếng.  Người con trai ấy chính là con cháu của người chủ nhà hôm nay đón tiếp Thánh Gia.  Chữa khỏi người con trai đó, Chúa Giêsu đã mang anh ta và hai người bạn của anh nầy theo, cùng Chúa đi tới tận Arabiamsau khi Lazarô qua đời.  Chàng thanh niên nầy sau trở thành môn đệ của Chúa và khi đi giảng dạy, nhiều lần Chúa Giêsu ghé lại đây.  Trong nhà nầy có nhiều trẻ nhỏ, trước khi lên đường, Thánh Giuse cho gọi các cháu lại, chúc lành cho chúng rồi mới khởi hành.

                                        

HÀNH TRÌNH TIẾP TỤC

  Hôm nay Thánh Gia đi tới khúc đường dễ đi hơn nhiều, nên lâu lâu Đức Maria bỏ lừa xuống rông bộ cho đỡ cuồng cẳng. Thánh Gia gặp những chổ ngừng nghỉ tiện nghi nhiều hơn, nên hai vị cũng bớt mệt nhọc phần nào.  Thánh Gia có mang theo mình những  tấm bánh nho nhỏ và bình nước để giải khát cho thêm sức.  Dọc đường gặp cây rừng có trái ăn được,  Hai Vị cũng ngừng chân hái dùng và để dành ăn dần.

   Trên lưng lừa Đức Maria ngồi trốc một tấm thảm nệm mỏng đủ êm, có hai bàn đạp thõng hai bên hông lừa cho Người để chân cho đỡ mỏi. Đức Mẹ ngồi quay mặt về một phía, nhưng thỉnh thỏang lại đổi thế cho đỡ mỏi lưng mỏi mắt.  Truyện ưu tiên thánh Giuse làm mỗi khi tới một chổ nghĩ,  là tìm ngay một nơi để Đức Mẹ có thể ngồi thư giãn dễ dàng cho bớt nhọc mệt.  Hai Vị thường tìm chổ rửa chân; dọc đường họ rửa chân rất nhiều lần.

  Khi Thánh Gia vào tới một căn nhà nằm cô quạnh bên đường, thì trời đã tối. Thánh Giuse gõ cửa xin trọ đêm, nhưng chủ nhà không muốn mở cửa đón tiếp.  Thánh Giuse phải mau mắn trình bày tình trạng Đức Maria, để xin được tá túc, vì  Đức Mẹ không thể tiếp tục đi xa hơn nữa. Hai vị xin trọ rồi sẽ trả tiền chu đáo, chẳng dám trú không.  Nghe trình bày, người chủ nhà cục cằn thô lỗ nói nhà anh ta không phải là quán trọ, anh ta muốn được yên, đừng gõ cửa nhà anh ta và cũng đừng làm phiền đến anh ta như thế nữa.  Không thèm hé cửa, anh ta từ trong nhà nói vọng qua vách phên.  Hai vị không tìm được chổ trọ, lại tiếp tục lên đường. Đi một quảng hai Vị gặp một cái nhà trống, thấy con lừa con đang nằm gần đó, liền ghé vào.

   Thánh Giuse đánh lửa, thắp đèn và lập tức tìm cách dọn một cái ổ rơm tạm cho Đức Mẹ nghỉ ngơi.  Ông ra ngòai dắt cả hai con lừa vào nhà, tìm cỏ cho chúng ăn, rồi Hai Vị cùng nhau cầu nguyện, sau đó nghỉ đêm.

   Tính ra từ nơi trọ trước đến đây, Thánh Giuse cũng đã đi được chừng sáu dặm đường. Từ Nazaret tới đây xa chừng hai mươi sáu dặm;chỉ còn chừng mươi dặm nữa là tới Giêrusalem.  Từ khi ra đi, Hai Vị không hề theo đường cái, chỉ lần theo những lối đi nhỏ nối từ sông Giođanô tới Samarie; từ Samarie, những lối đi nhỏ ấy nối vào quan lộ chính dẫn tới Syria và Ai cập. Những nẻo đường ngang hai Vị đã đi, đều nhỏ hẹp, chạy trong vùng sơn cước, gập ghềnh khó đi, nhưng con lừa lớn lại thủng thẳng bước những bước rất vững chãi, nên không làm cho Đức Mẹ bị mệt và gặp nguy hiểm nào.  Chốn trọ bây giờ của Thánh Gia là căn nhà hoang trống trải vô chủ, nằm trên khỏanh đất bằng phẳng hẳn hoi.

   Sáng tinh mơ hôm sau Thánh Gia đã ra đi tiếp. Đường đi có vẻ từ từ lên dốc một chút, nhưng trực chỉ Giêrusalem. Chổ trú đêm vừa qua thuộc vùng biên giới Samarie và xứ Juđêa.  Trong đọan hành trình nầy, hai Vị còn bị một lần khước từ không cho nghỉ trọ nữa, mới hết gian lao.

   Khi Thánh Gia đi tới còn cách mấy dặm về phía Đông Bắc Bêtania, thì Đức Mẹ lên cơn mệt bất tử, muốn ăn uống chút gì và cần nơi nghỉ ngơi.  Thánh Giuse liền cho lừa rẽ ngang lối khác, đi chừng nửa dặm thì tới một chỗ có cây vả rất đẹp, thường nặng chĩu những trái;nơi đây người ta đặt nhiều chiếc ghế dài, để ai cũng có thể nghỉ ngơi được. Thánh Giuse từng biết rõ nơi đây, vì đã ghé nhiều lần trong những hành trình trước.  Nhưng lần nầy, khi hai Vị tới nơi, thì cây vả trơ trụi không một trái nào,  làm cho Thánh Gia buồn bã.  Sau nầy, Chúa Giêsu gặp lại chính cây vả nầy,  lúc đó cũng chỉ trổ đầy lá, mà chẳng có một trái nào, nên Ngài quở nó và nó bị chết đứng.

   Từ chỗ cây vả, Thánh Gia tới một căn nhà.  Chủ nhà đối xử rất hỗn xược với Thánh Giuse khi Người khiêm tốn tỏ ý xin trọ.  Người chủ nhà giơ đèn soi quan sát Đức maria, rồi cằn nhằn thánh Giuse tại sao lại mang tới nhà anh ta một phụ nữ quá trẻ mà bụng mang dạ chữa như thế. Giữa lúc đó, vợ chủ nhà nghe chồng to tiếng liền bước tới. Bà ta động lòng thương mến Đức Maria, lập tức mời hai Vị vào nhà, dọn cho Đức Mẹ một căn phòng khang trang sạch sẽ và mang tới cho Người mấy chiếc bánh nho nhỏ, để Đức Mẹ đỡ lòng. Lúc đó người chồng mới tỏ ra hối hận về cử chỉ và ngôn ngữ thô lỗ của mình.

   Sau lần nầy, trên đường đi, Thánh Gia còn trọ một lần nữa tại nhà một phụ nữ trẻ, làm nghề giao dịch buôn bán. Thánh Gia tuy được ghé trọ,  nhưng chẳng được đối xử đẹp đẽ là bao.  Họ bỏ mặc hai Vị chẳng ngó ngàng gì tới. Họ không phải  là những người làm nghề chăn chiên cứu,  tính tình đơn sơ chất phác, mà là lọai nhà giàu ở thôn quê, quanh năm bận rộn với công việc làm ăn, với giao dịch mặc cả.

   Sau nầy, khi đã chịu phép rửa rồi, Chúa Giêsu cũng có lần ché nhà nầy,  được họ chỉ căn phòng khi xưa Đức Mẹ đã tạm nghỉ qua đêm. Có thể chủ nhà muốn cầu lợi và mong được thân cận với Chúa, vì họ nghe đồn Người đã làm nhiều phép lạ.

   Càng về cuối hành trình, Thánh Giuse càng lo liệu thêm chỗ nghỉ, vì Đức Maria ngày càng tỏ ra mệt mỏi thêm.  Thánh Gia cứ theo lối do con lừa nhỏ đu trước dẫn đường và vòng quanh phía Đông thành Giêrusalem,  lâu mất một ngày rưỡi đường. Trên nẻo nầy, Thánh Gia đi qua những cánh đồng cỏ trước kia thuộc sở hữu của thân phụ Thánh Giuse,  nên Ngài rất quen thuộc ngả nầy và biết sẽ phải băng qua vùng sa mạc nằm ở phía sau Thành Bêtania.  Từ đó Thánh Gia sẽ tới Bêlem trong sáu giờ đi nữa,  nhưng nẻo đi nầy khá gập ghềnh và khó đi mùa nầy.  Tuy nhiên Hai Vị vẫn cứ theo con lừa nhỏ mà đi.

   Hôm nay, vào giữa ban ngày, Đức Bà và Thánh Giuse vào nhà một người chủ trại chăn cừu.  Nhà nầy rất lớn, tọa lạc chừng ba dặm cách xa nơi Thánh Gioan làm phép rửa trên sông Giođanô và cách Bêlem chừng bảy dặm đường.  Nơi đây ba chục năm sau, chính Chúa Giêsu cũng nghỉ qua đêm, rồi ngày hôm sau Người đến gặp Thánh Gioan Tiền Hô lần đầu,  kể từ sau khi Chúa chịu phép rửa.  Cơ sở nầy to rộng.  Gần ngôi nhà ở to lớn, có một cái trại xếp đủ các lọai nông cụ. Ngòai sân có cái giếng, chung quanh thiết trí nhiều phòng tắm, có đường ống dẫn nước từ giếng chảy vào.  Chủ nhà tất phải là một phú ông giàu có lắm, tài sản rất nhiều. Kẻ ăn người làm đông đảo, đi lại nhộn nhịp, ăn uống ồn ào.

Chủ nhà đón tiếp Thánh Gia rất thân thiện, tỏ ra là người hay giúp đỡ kẻ khác.  Ông ta sai người dẫn hai Vị tới một căn phòng đầy tiện nghi, và sai người săn sóc con lừa Đức Mẹ cưỡi. Một người nô tài trong nhà rửa chân cho thánh Giuse tại gần cái giếng giữa sân, và mang áo quần mới đến cho Ngài thay. Một thị tì cũng vâng lệnh chủ tới phục dịch Đức Mẹ như thế.  Hai Vị dùng bữa trong nhà nầy và nghỉ tại đây.

  Bà chủ nhà có tính kỳ lạ, thấy khách tới chỉ ở lì trong phòng, không ló mặt ra ngòai.  Thấy Đức Mẹ vừa trẻ vừa đẹp lạ lùng, lại mang thai sắp sinh,  bà ta đâm sợ, vả lại lúc vào nhà Thánh Gia không lưu ý tìm chào hỏi bà ta, nên bà tìm cách tiễn khéo hai Vị, muốn Thánh Gia phải ra đi vào sáng hôm sau.  Ba thập niên sau, chính người nầy là người phụ nữa vừa bị mù,  vừa còng lưng, đã được Chúa Giêsu chữa cho khỏi cả, sau khi giảng giải cho bà ta hiểều về tính phách lối, đố kỵ và tật không muốn khách lạ viếng nhà.

   Trưa hôm sau, Thánh Gia rời nhà nông giàu có nầy, lên đường về Bêlem.  Có mấy người trong nhà theo tiễn chân hai Vị một quãng đường.  Đi được chừng hai dặm, lúc ấy về chiều, hai Vị tới một địa điểm có con đường lớn băng ngang.  Hai bên đường lớn nầy là nhà cửa san sát, nhà nào cũng có vườn tược, sân bãi.  Thánh Giuse có nhiều bà con cư ngụ tại khu nầy. Dường như họ là những người thuộc hàng con riêng của ông dượng hoặc dì ghẻ gì đó.  Ai nầy đều có nhà cửa đàng hòang hẳn hoi.  Hai Vị chỉ đi ngang mà không ghé. Quá chổ đó chừng nửa dặm, hai Vị quay sang phía tay phải, hướng về Giêrusalem, đi tới một nhà trọ lớn. Trong sân nhà trọ có cái giếng bắt nhiều vòi nước dẫn đi các nơi. Trong nhà trọ có đông đảo người tụ họp. Họ đang cử hành một đám tang.

   Bên trong tòa nhà chính thiết trí một lò sưởi, có ống dẫn khói lên khỏi mái nhà;những tấm ngăn để phân phòng nhỏ đều được dỡ đi gần hết, nên một phần ngôi nhà trở thành một phòng rộng mênh mông.  Phía sau lò sưởi,  treo những bức trướng đen, trước các bức trướng ấy có kê một cái gì đó,  trông giống như chiếc quan tài, cũng phủ vải đen.  Nhiều người tụ họp tại đó cùng nhau cầu nguyện; ai nấy đều vận áo dài đen bên trong, ngòai mặc thêm áo trắng cộc hơn.  Một vài người cò đeo lủng lẳng ở cánh tay tấm khăn đen có tua, có lẽ họ là những thầy tư tế tới giúp đám.

   Phụ nữ thì tụ họp trong một phòng khác nhỏ hơn, ai nấy vận quần áo che kín mít hòan tòan cả người. Họ ngồi trên những chiếc đương thật thấp và khóc lóc ỉ ôi.

   Dù bận rộn đám tang, những viên quản lý nhà trọ vẫn lưu ý tới khách ra  vào, chỉ đường cho những khách mới tới.  Bọn gia nhân thì phục dịch khách rất nồng nhiệt và chu đáo.  Khách trọ được dọn chỗ ngụ riêng biệt từng người, mỗi người trong một khỏang, giống như một phòng riêng,  nhưng bốn bề không phải phên vách, mà là những chiếc chiếu treo, thay cho những tấm màn vải. Thiết trí như thế, nhà trọ coi giống như một chiếc lều vải lớn vậy.

  Đức Bà và Thánh Giuse cũng ngụ trong những phòng vây chiếu như thế.  Có nhiều người nhà hiếu tìm tới thăm Thánh Gia, chuyện trò thân mật với hai Vị.  Khi tới thăm Thánh Gia, những người đó đã cởi chiếc áo trắng cộc bên ngòai ra rồi.  Khách khứa vãn, hai Vị dùng một chút của ăn,  rồi cùng cầu nguyện chung, sau đó đi nghỉ.

  Ngày hôm sau, vào lối giữa trưa, Đức Bà và Thánh Giuse rời quán trọ lên đường xuống Bêlem, chỉ cách đó chừng ba dặm mà thôi.  Bà chủ quán trọ tha thiết mời hai Vị nán lại, vì bà cho là Đức Maria đã tới thời điểm có thể lâm bồn bất cứ lúc nào.  Đức Maria đáp, sau khi đã buông tấm voan che mặt xuống, rằng mình còn phải đợi thêm ba mươi sáu giờ nữa mới sinh.  Tại sao Đức Mẹ lại nói ba mươi sáu, mà không nói ba mươi tám giờ? Không ai hiểu được điều nầy ngòai Người.  Bà chủ quán giữ hai Vị ở lâu,  không phải nghỉ ở quán trọ, mà sẽ nghỉ ở một ngôi nhà khác. Trước khi ra đi, Thánh Giuse giải thích với ông chủ quán về hai con lừa của mình.  Vợ chồng chủ quán nói cho Thánh Giuse biết sự khó kiếm chổ trọ tại Bêlem lúc  nầy, nhưng Thánh Giuse đáp: ông có nhiều bạn bè và bà con họ hàng ở đó, hy vọng sẽ được tiếp đón hẳn hoi.  Dọc đường Thánh Giuse còn nói lại với Đức Maria, rằng chắc chắn hai Vị sẽ được tiếp đón khi tới Bêlem, và hẳn sẽ có nơi trú ngụ ấm cúng.  Nhưng ai học được chữ ngờ!     

        

THÁNH GIA TỚI THÀNH BÊ-LEM

   Đường từ quán trọ tới Bêlem, như đã nói, xa chừng ba dặm.  Hai Vị không trực chỉ, mà đi vòng về hướng Bắc và vào thành qua lối cửa phía Tây.  Thánh Gia nghỉ chân bên một gốc cây ở vệ đường.  Đức Maria xuống lừa. Người chỉnh đốn lại áo quần cho ngay ngắn, rồi hai Vị cùng tiến tới một tòa nhà rất lớn, nằm giữa những ngôi nhà nhỏ trong một khu có sân rộng.  Thánh Gia tới Bêlem sớm hơn ít phút theo dự trù.

   Đã có nhiều người tới trước, họ dựng lều la liệt dưới gốc cây, vì khu đó trồng  rất nhiều cây cối.  Khu dinh thự nầy là khu nhà xưa của gia đình Vua David, trước kia thân phụ Thánh Giuse cũng từng sở hữu một phần.  Ngày nay một số người trong dòng họ vần còn trú ngụ tại khu đó.  Họ độc chiếm, xử với Thánh Giuse như người ngòai , không muốn công nhận ông bao giờ hết.

  Ngay lúc nầy, tòa dinh thự chính được dùng làm văn phòng thu thuế của nhà nước La Mã.

  Thánh Giuse, tay dắt lừa, cùng Đức Maria tiến vào khu văn phòng đăng ký nhân khẩu và thuế vụ.  Hết thảy những ai tới đăng ký và khai thuế đều được cấp một giấy chứng nhận, ai không có giấy chứng nhận, không được nhập thành Bêlem.

  Lúc nầy con lừa con không thấy quanh quẩn bên Thánh Gia. Nó chạy lung tung vòng quanh thành và chạy nhảy ở thung lũng nhỏ ngòai thành.  Thánh Giuse vào tòa nhà lớn, còn Đức Mẹ lại vào một ngôi nhà nhỏ ở trong sân, cùng với những phụ nữ khác. Những người đàn bà ấy đối xử rất tử tế với Đức Bà, lấy phần ăn biếu Người. Họ là những kẻ nấu bếp cho binh lính La-Mã đóng trong khu ấy.

   Trời hôm nay khá đẹp, không còn lạnh lẽo; ánh thái dương rực rỡ dọi trên rặng núi nằm giữa Giêrusalem và Bêtania. Từ Bêlem nhìn về khu đó,  cảnh trí mới đẹp làm sao! Thánh Giuse vào một căn phòng lớn của dinh thự.  Người phụ trách hỏi ông là ai, rồi truy tầm trong những cuộn hồ sơ,  có nhiều cuộn treo sẵn trên tường. Tên tuổi Thánh Giuse được tìm ra; người ta đọc lai-lịch dòng họ của ông và cả của Đức Maria nữa.  Thánh Giuse đâu ngờ, chính ông và Thánh Gioakim đều là miêu duệ trực hệ dòng Vua David. Người phụ trách văn phòng hỏi thánh Giuse rằng Đức Maria hiện ở đâu?

    Trước đây bảy năm, người ta đã thường xuyên bổ thuế cho người xứ nầy, từng xãy ra những truyện mất trật tự và nhầm lẫn. Lần thu thuế nầy bắt đầu thi hành từ vài tháng nay, thể lệ không giống như bảy năm trước,  là được trả dần trong bảy năm cho đến hết thì thôi. Lần nầy người thu thuế chỉ được phép nạp thuế hai kỳ cho xong, không được kéo dài suốt bảy năm như trước đây nữa.

   Đồi với việc nạp thuế, Thánh Giuse có phần chậm trễ, nhưng người ta chẳng những không họanh họe, mà còn đối xử hết sức tử tế.  Hôm nay tới đăng ký, nhưng ông chưa nạp được thuế, người phụ trách hỏi về tình trạng tài chính và tình hình sinh sống của ông. Ông cứ thực tình trả lời: ông không có vốn liếng tài sản gì, chỉ sống độ nhật bằng nghề thợ mộc,  thỉnh thỏang được nhà mẹ vợ giúp đỡ thêm ít nhiều, thế thôi!                       Trong tòa nhà có rất đông ngừơi làm việc. Những phòng trên lầu là viên chức và quân nhân người La Mã.  Cũng có cả những người Phariêu, Sađốc các thầy tư tế, một số thầy thông giáo và viên chức, gồm cả ngừơi Do-Thái và La Mã. Đó là một cơ quan hỗn hợp mà ở Giêrusalem không có thứ Uũy ban nào như thế cả, nhưng trên đất Palestine đương thời thì chổ nào cũng có thứ văn phòng nầy.  Nhà cầm quyền La Mã đã thiềt lập Phòng thu thuế như thế ở Magdalum, gần hồ Génésareth để dân vùng Galilée có thể tới đó đăng ký nạp thuế.  Ở Sidon cũng có một phòng thuế như vậy.  Chỉ có những người cùng đinh không lợi tức, không tài sản để nạp thuế liền, mới phải về sinh quán khai thuế mà thôi.

   Theo lệnh trên, thuế thu kỳ nầy ở Palestine xong, ba tháng sau sẽ được chia làm ba phần: một phần dành cho Vua Augustus, Vua Hêrôđê và một số vị hòang tử cư ngụ gần Ai cập;phần thứ hai dùng vào việc xây cất Đền Thờ;phần sau cùng dùng cứu trợ bà góa và kẻ nghèo xưa nay chưa hề được trợ cấp gì.  Nhà  cầm quyền đã đưa ra những lý do trời đất để vét mồ hôi nước mắt của dân, tập trung vào tay những kẻ quyền uy.

   Trường hợp thánh Giuse được giải quyết xong, Đức Maria được mời tới trước mặt một số thầy thông giáo. Bọn họ không làm giấy tờ gì, mà quay sang nói với Thánh Giuse rằng ông không cần dẫn thêm người phối ngẫu của mình đến khai thuế. Chúng ta vẽ giễu cợt, vì thấy Đức Maria còn quá trẻ lại hết sức xinh đẹp.  Thánh Giuse thấy vậy cũng không được vui lòng.

TÌM KHÔNG RA CHỖ TRỌ

   Ở phòng khai thuế ra, Hai Vị tiến vào thành Bê-lem.  Nhà cửa trong thành tuy nhiều, nhưng nhà nhà làm cách nhau khá xa, để chừa những khỏang đất trống rộng lớn.  Vào tới đầu một con phố, Đức Maria im lặng đứng chờ cạnh con lừa, một mình Thánh Giuse hối hả đi tìm chỗ trú. Ông vào ngay những ngôi nhà ở đầu phố, nhưng chẳng nhà nào có chỗ.  Nhà nào cũng tòan là dân lạ, mới tới khai thuế và ngụ tạm trong thành.  Ngòai đường phố, dân chúng còn đi lại khá tấp nập.  Thánh Giuse bôn ba suốt con phố, nhưng vẫn chẳng tìm ra được nơi trú trọ.

   Không sục sạo ra nơi ở tạm, thánh Giuse vội vã quay lại gặp Đức Bà.  Ông nắm dây cương đát con lừa, thư thả đưa Đức Mẹ đi sang một con phố khác.  Đức Maria lại một mình đứng bên con lừa, để thánh Giuse hối hả đi tìm nhà trọ, nhưng cũng  vẫn không thể tìm được nơi tạm trú. Ông buồn bã quay lại chỗ Đức Mẹ đứng, rồi hai Vị lại đi tới một phố khác, rồi một con phố khác…Cứ thế hai Người đi khắp nội thành Bê-lem, mà chẳng ai thèm chứa!…

   Chán nản, Hai Vị liền rời phố xá rộng rãi, lần vào một con đường nho nhỏ, nhà cửa thưa thơt và có vẻ như dẫn ra ngòai thành.  Ở đây vẫn không thể tìm ra chỗ trọ.  Hai Vị liền tiếp tục tiến về phía hông thành, nơi đây nhà cửa càng thưa thớt hơn. Cuối cùng tới một khỏang đất trống rất rộng,  giống như một cánh đồng hoang nằm giữa tỉnh thành vậy.  Tại đạy có những cái trại hoang đổ nát, ở gần một cây rất lớn, trông giống như cây bồ đề, thân cây trơn láng, cành mọc tỏa ngang, giống như một cái mái kết quanh thân cây vậy.  

   Thánh Giuse đưa Đức Mẹ lại dưới cây ấy. Ngài lấy những gói đồ mang theo, xếp dưới gốc cây làm thành chổ ngồi có chút tiện nghi, để Đức Maria tạm nghỉ trong khi Ngài tiếp tục đi tìm chổ trú khá hơn. Thánh Giuse tìm tới những nhà ở xa chung quanh. Con lừa im lặng nằm phục gần Đức Mẹ và quay đầu về phía gốc cây bồ đề.

   Thọat đầu, Đức Mẹ còn đứng tựa vào gốc cây, nhìn theo hướng Thánh Giuse đã đi khuất. Chiếc áo dài trắng bằng len của Người, không có thắt lưng, chảy xuống sát đất làm thành những nếp gấp rất tư nhiên và mỹ thuật. Đức Mẹ phủ trên đầu một chiếc khăn thưa rộng mầu trắng. Trong phục sức đơn sơ, tao nhã, Đức Maria như một tiên nữa trầm tư bên rừng,  khiến người đi ngang qua, ai cũng phải nhìn ngắm. Nào họ có biết người thiếu nữ phong thái thần tiên ấy chính là Mẹ Thiên Chúa, mà Ngôi Hai Nhập Thể đang ngự trong cung lòng Người.

   Đức Mẹ nhẫn nại, khiêm cung và chịu đựng biết nhường nào! Hẳn còn phải chờ lâu Thánh Giuse mới có thể tìm ra nơi trọ và trở lại báo tin, để cho bớt mệt, Người thư thả ngồi xuống chổ ghế tạm, mà Thánh Giuse đã xếp dưới gốc cây. Người chắp tay lại, để trước ngực và cúi đầu thì thầm cầu nguyện.

  Thánh Giuse buồn bã trở về chỗ cây bồ đề, nói cho Đức Mẹ hay ông không sao tìm ra chổ trọ.  Đám bạn bè quen biết mà ông tìm tới, chẳng ai muốn nhận ông.  Thánh Giuse vừa nói vừa khóc, đến nỗi Đức Mẹ phải khuyên dỗ ông.  Dù ấm ức, thánh Giuse lại ra đi tiếp tục tìm nơi trọ. Ông vẫn ghé từng nhà, từng nhà, nài nỉ hết lời, nhưng thất vọng vẫn là thất vọng.

   Trời chiều ngày một đổ tới.  Bóng đêm đã lấp ló đâu đây. Chỗ cây bồ đề vốn quạnh hiu hoang vắng, chiều muộn lại càng cô tịch hơn nhiều.  Người qua kẻ lại thưa thớt dần, nhưng thỉnh thỏang vẫn còn kẻ vội vã đi qua.  Có kẻ lấy làm ngạc nhiên vì trời sắp tối, mà ở nơi hoang tịch nầy lại còn có người ngồi dưới gốc cây, lặng lẽ một mình. . !?Không thể dẹp tính tò mò,  họ phải ngừng bước, đứng từ xa quan sát Đức Maria. Có kẻ tò mò hơn,  tới gần  hỏi cho biết Người là ai, mà thân gái một mình ngồi mãi dưới gốc bồ đề ở nơi hoang tịch như thế, trong khi trời đã tối.

   Sau cùng Thánh Giuse lại trở về bên Đức Bà.  Ông rất bối rối vì chưa tìm đưực nơi  trú trọ. Ông rụt rè chậm bước, không dám tiến lại gần Người.  Nhưng rồi Ông cũng phải lên tiếng trong buồn bã, nói cho Người biết cái công cốc của mình.  Sau cùng ông nói rằng Ông biết phía trước thành Bê-lem rất có thể tìm ra được nơi tạm trú, nơi đó bọn mục đồng thường ở khi chúng dẫn đàn cừu tới thả cỏ ở cánh đồng bên ngòai thành Bê-lem.  Thánh Giuse từ hồi còn thanh niên đã biết rõ nơi nầy.  Khi bị anh em trong nhà tạo phản, ông thường tìm ra chỗ đó để tránh vạ và cầu nguyện một mình.  

   Dĩ nhiên không còn cách nào hơn, Đức Bà liền cùng Thánh Giuse thu dọn,  dắt lừa đi về phía Đông thành, lần theo một lối mòn hoang vắng quẹo sang tay trái.  Đường đi na ná như con đường dọc theo dãy tường đổ nát của một ngôi tiểu cổ thành hoang tàn.  Thọat tiên, con đường lên dốc một quãng, rồi đổ xuôi như sườn đồi, chỉ đi chừng mấy phút là tới mạn Đông thành Bê-lem, nơi nầy nằm ngay phía trước mặt địa điểm Thánh Gia muốn kiếm.  Đó là một con đồi, có những hàng tùng bá mọc bên sườn,  cây nào cành lá cũng xum xuê xanh biếc.  Giữa rặng tùng bá, xen những cây lá nhỏ như lá cây hòang-dương.    

             

QUANG-CẢNH HANG BÊLEM.

    Ngọn đồi mọc những rặng tùng bá và hòang dương, có con đường mòn vòng quanh, dẫn tới cánh đồng cọ bọn mục đồng quen thả cừu, đã mờ mờ trong sương chiều.

    Nằm về phía cực Nam của ngọn đồi, biệt lập hẳn với những hang động khác, là cái hang thánh Giuse từng năng tới tránh nạn và cầu nguyện; chính hang nầy ông muốn đưa Đức Mẹ tới tạm trú qua đêm. Từ đây trở đi,  chúng ta gọi hang nầy là “Hang Bê-Lem”.

    Cửa hang Bê-Lem quay về hướng Tây, khởi vào hơi hẹp, nhưng vào bên trong hang lại phình ra, thành một gian phòng kín đáo, ấm áp, khá rộng rãi.  Gian thạch thất nầy một phía hình tròn, phía kia hình tam gíac. Hang nằm ở sườn phía Đông ngọn đồi.  Nó vốn thuộc lọai hang động thiên nhiên.  Nhưng ở phía Nam bên ngòai hang, sát với đường mòn bao quanh đồi dẫn tới đồng cỏ, người ta có đục đẽo và xây sửa thô sơ một chút để bớt vướng lối đi.  Từ phía Nam nầy, Hang Bêlem còn có một cửa vào thứ hai nữa, nhưng cửa nầy thường hay lấp kín, thánh Giuse khi xưa đã phải mở ra để tiện đi lại.  Do phía cửa thứ hai đi ra, về phía tay trái, lại gặp một cử khác, dẫn vào khúc hang chật chội, rất khó đi và ăn sâu mãi xuống, làm thành cái động ngầm bên dưới Hang Bêlem. Như thế, Hang Bêlem là tầng trên, còn hàng nầy là tầng dưới, nhưng hai tầng không thể thông được với nhau.  Đứng ở cửa Hàng Bêlem có thể nhìn thấy mặt trời lạn và nhấp nhô những nóc nhà trong thành Bêlem.

   Chúa Giêsu đã giáng sinh trong hang nầy.  Sau khi chịu phép rửa, có lần Người trở về Hang Bêlem và mừng ngày Sabbat trong đó.  Gần Hang Bêlem có một cái hang thiên nhiên khác, là nơi chôn cất bà vú nuôi Ông Abraham xưa. Người ta gọi hang đó là “Hang Một Bà Maraha”.  Ông Abraham có một nhũ mẫu tên là Maraha. Ông đặc biệt kính trọng bà và bà sống rất thọ. Cưỡi trên lưng lạc đà, nhũ mẫu Maraha theo ông đi khắp nơi.  Bà sống nhiều năm tại Succoth. Vào những ngày cuối đời, bà Maraha cũng theo ông Abraham tới cánh đồng cỏ gần hang Bêlem, nơi ông Abraham dựng lều.  Khi đã sống quá tuổi một trăm, thấy mình đã cận kề cái chết, bà xin ông Abraham chôn cất bà trong một cái động trên ngọn đồi gần hang Bêlem.  Bà đặt tên cho hang động Abraham sẽ chôn cất bà,  là “Hang Sữa” hay là “Hang Nhũ Mẫu”.  

THÁNH GIA VÀO TRONG HANG BÊLEM

    Khi Đức Bà và Thánh Giuse tiến tới cửa hang, thì trời đã khuya.

   Ngay từ lúc Thánh Gia vào tới khu văn phòng đăng ký và khai thuế, con lừa con đã biến đi đâu không biết, nhưng đúng lúc hai Vị tiến tới cửa hang, nó bỗng từ trong bóng tối chạy lại, nhảy nhót mừng vui chung quanh Thánh Gia. Thấy thế, Đức Mẹ mỉm cười nói với Thánh Giuse:”Ngài coi kìa! Chắc hẳn là Thánh ý Thiên Chúa mà ta bước vào hang động nầy”.  Thánh Giuse liền buộc con lừa lớn ở chỗ hình như cái mái nhô ra ở trước cửa hang động. Ông dọn chỗ như  một chiếc ghế, để Đức Mẹ ngồi nghỉ tạm, trong khi ông lo thắp đèn và đi vào trong hang dọn dẹp trước.

   Lối vào hang có vẻ hơi tắc, vì đầy rơm rác, cỏ khô, lá rụng bừa bãi, lẫn với những mảnh chiếu rách quăng vứt tứ tung. Ngay bên trong hang cũng ngổn ngang, nhếch nhác, đủ thứ linh tinh.  Thánh Giuse ra công ra sức thu dọn nhanh chóng cho thật sạch, chỉ riêng góc phía Đông cửa hang mà thôi,  cốt sao có chỗ sẵn sàng, để Đức Maria vào nghỉ ngơi bớt mệt, rồi sau đó ông sẽ tiếp tục dọn sạch hết cả hang.

   Dọn xong, thánh Giuse tìm chỗ thuận tiện để cây đèn cao sáng được khắp cả hang, rồi ra ngoài rước Đức Mẹ vào.  Vào tới trong, Đức Maria ngồi xuống nghỉ ngơi trên tấm mền được Thánh Giuse trải sẵn.  Thánh Giuse ngượng ngập, sẽ-sàng xin lỗi Đức Bà, vì không còn cách nào tìm ra cho Người một chỗ trú khác khá hơn.

   Khi Đức Mẹ nghỉ ngôi trong hang đâu đấy rồi, Thánh Giuse mới xách chiếc túi da vốn luôn đeo bên mình, chạy đi tìm con suối ngoài sườn đồi,  múc đầy bình nước đem vào hang.  Sau đó ông vào trong thành, tìm mua mấy cái đĩa và một mớ than củi. Ngày sabbat đã gần kề, lại thêm có đông người lạ kéo về thành, nên mọi thức dùng đều trở nên khan hiếm, đến nỗi nhiều dân thành đã có sáng kiến kê ở góc các ngả phố, những chiếc bàn nhỏ, bày bán đủ thứ thực phẩm, bánh trái, vv. . , tiện cho người lạ mua dùng.

    Thánh Giuse trở về, mang theo than hồng nhóm trong một cái lò nhỏ.  Ông để lò than ngay lối cửa vào hang, rồi nhóm bếp củi, sửa soạn một bửa ăn tươm tất, gồm mấy chiếc bánh và món trái cây nấu chín, cho Đức Bà dùng.  Khi dùng bửa và cầu nguyện xong, ông làm một chiếc ổ sạch sẽ,  gọn gàng tươm tất, để Đức Bà nghỉ.  Chiếc ổ ấy có rơm và cỏ khô trải sát nền hang, rồi trải lên trốc rơm cỏ chiếc chiều, trên nữa là một tấm mền lớn,  lấy trong những tấm mền từ nhà Thánh Anna mang theo;ở mép ổ sát vách hang, ông cuộn một chiếc mền khác làm gối cho Đức Bà.  Ông dắt con lừa lớn vào trong hang, cột nó ở một góc, rồi ông tìm cách bít kín những lỗ hổng trên trần thạch động, để gió khỏi thổi khí lạnh vào hang.  Sau cùng, ông soạn một chỗ ngay gần cửa ahng để chính mình nằm đó, đề phòng đối phó với mọi bất trắc xãy ra từ bên ngoài.

   Khi ngày sabbat bắt đầu, thánh Giuse cùng Đức Bà đến gần cây đèn,  cùng cầu nguyện theo thể thức trong ngày Sabbat.  Cầu nguyện xong, ông vào thành nữa.  Đức Mẹ ở lại hang.  Người khoác mền cho đỡ lạnh và nghỉ ngơi chút ít, rồi qùy ngay trên ổ rơm cỏ, thầm thì suy niệm một mình,  sau đó người nằm xuống nghỉ ngơi.  Đức Bà phải nằm nghiêng, đầu gác trên tay và tay đặt trên gối cho cao, thì mới dễ thở được.

   Sau trưa, Thánh Giuse về. Ông đưa Đức Bà ra ngoài hang tản bộ và tới viếng hang mộ bà Maraha gần đấy. Đức Mẹ lưu lại trong hang một lúc,  thấy hang nầy có vẻ rộng rãi hơn Hang Bêlem, mà lại khoét giữa vùng đá trắng và mềm, đúng với cái tên “Hang Sữa” bà Maraha đã đặt.  Ra ngoài,  Hai Vị đến ngồi bên một gốc cây và tiếp tục kinh nguyện cho tới hết ngày sabbat.

   Đức Bà báo cho Thánh Giuse biết ngày giờ Người hạ sinh Chúa Giêsu,  sẽ xãy ra vào chính nửa đêm hôm nay, ví tới ngày giờ nầy là vừa tròn chín tháng, kể từ khi Thiên Sứ đến truyền tin cho Đức Bà.  Người thầm thĩ nguyện xin, cho mình làm sao thêm lòng tôn kính và lảm cả sáng sự giáng trần của Ngôi Lời Con Thiên Chúa. Đức Mẹ cũng xinThánh Giuse hợp ý cùng cầu nguyện như vậy với Người. Đức Mẹ cũng xin Thánh Giuse  cùng Người cầu nguyện cho những kẻ, với lòng chai đá, đã không chịu đón tiếp Thánh Gia trong dịp nầy. Thánh Giuse xin Đức Mẹ vui lòng cho phép hai người phụ nữ đạo đức trong thành Bê-lem mà ông quen biết,  được tới hang để giúp đỡ và phục dịch Đức Mẹ, nhưng Người không thuận,  chỉ nhẹ nhàng trả lời Người không dám làm phiền bất cứ ai.

   Lúc chập tối ngày sabbat, Thánh Giuse lại vào thành để mua thêm những thứ cần thiết, như mấy cái bát, một chiếc bàn nhỏ, chân thấp, một mớ đèn đầu và bình dầu, thêm một ít trái cây và nho khô, mang về trong hang.  Thánh Giuse làm bữa, rồi hai Vị dùng cơm tối, sau đó cùng cầu nguyện.

   Lúc nầy mới có chút thời giờ rảnh tay, Thánh Giuse kiếm một chiếc sào,  gác ngang từ sườn nầy sang sườn kia vách hang, rồu kiếm những miếng chiếu treo lên như bức vách tạm, phân hang ra làm hai khu rei6ng biệt: phía trong là “phòng riêng”của Đức Mẹ;phía ngoài làm chỗ sinh hoạt cần thiết. Xong xuôi, Ngài cho con lừa lớn ăn;con lừa nhỏ không ở trong hang: nó vẫn ở ngoài, chạy lung tung, gặm cỏ khắp nơi.

   Thánh Giuse lôi cái máng đựng cỏ cho súc vật ăn, vốn vất xó trong hang không biết đã từ bao lâu rồi, nhưng bên trong vẫn còn mớ rơm và cỏ khô. Ông xếp rơm cỏ cho bằng phẳng, kiếm thêm mớ rêu khô lát lên trên cỏ, rồi lấy một cái mền nhỏ gấp lại trải lên trên cùng. Thánh Giuse chuẩn bị như thế, vì Đức Maria đã nói: giờ hạ sinh Con Chúa Trời đã tới.

    Trong khi Đức Mẹ qùy trong “phòng riêng” cầu nguyện, thì Thánh Giuse kiếm cách treo khắp trần thạch động những chiếc đèn dầu nho nhỏ ông đã mua về.  Treo xong, ông thắp sáng hết. Vừa lúc ấy ông nghe ngoài hang,  ngay trước cửa ra vào, có những tiếng động lạ.  Thì ra con lừa con từ trước vốn chạy lung tung, bỗng quay về và nhảy nhót vui mừng ngay trước cửa hang. Thấy Thánh Giuse ra, nó làm trò đùa, chạy vòng vòng chung quanh ông.  Ông giữ nó lại, cột nó ở mái hiên sát cửa hang, đi lấy cỏ cho nó ăn và nước cho nó uống.

   Quay vào hang, Thánh Giuse thấy Đức Mẹ đang qùy cầu nguyện, Người quay lưng ra phía cửa hang, mặt hướng về phía Đông.  Chung quanh Đức Mẹ lúc ấy toả ra một vầng ánh sáng kỳ lạ và hơi nóng như lửa bốc ra theo,  làm cho toàn hang sáng rực và ấm áp, như có thứ ánh sáng siêu phàm chiếu dọi vậy.  Như Ông Maisen xưa thấy lửa trong bụi gai, Thánh Giuse lúc nầy cũng nhìn thấy Đức Mẹ vây bọc trong biển ánh sáng, với đầy lòng cung kính, đợi chờ! Lập tức, ông về góc hang của mình, sấp mặt xuống đất lạy thờ chờ đợi…Ông biết Ngôi Hai Thiên Chúa đã tới giờ giáng thế…Giờ huyền nhiệm linh thánh đã điểm

CHÚA GIÁNG-SINH

     Vầng ánh sáng chung quanh Đức Maria càng lúc càng chói chang thêm,  làm bạt hết ánh lửa của những ngọn đèn Thánh Giuse đã thắp treo khắp trần hang.

    Đúng nửa đêm, Đức Mẹ bỗng ngất trí và đi vào cơn xuất thần. Người như được nâng cao khỏi mặt đất tới cả thước, bay bổng nhưng ở nguyên một ví trí.  Hai tay Đức Mẹ khoanh chéo trước ngực.  Người vẫn trong tư thế qùy gối định niệm.  Vầng hào quang chói lọi bao quanh Đức Mẹ càng phút càng chói lọi thêm. Tất cả cảnh trí như nói lên niềm cảm xúc hân hoan,  mừng vui, cả đến gỗ đá cũng nhận thấy được và cùng cộng hưởng.

    Ánh sáng từ Đức Maria chiếu giãi vào khắp thạch thất, làm cho mắt đá trở nên linh động, lóng lánh như giát ngọc lưu li. Trần hang như biến đi đâu mất.  Biển sáng từ Đức Maria bốc thành cột hắt thẳng lên trời, lên mãi,  thấu tận thiên đàng, lẫn với âm vang vô thanh nhiệm mầu rền lan khắp vũ trụ.  Trần gian như kinh hoàng run rẫy, nép mình tận đâu đâu len lén ngó nhìn, vì đây là cảnh giới thiên cung đang diễn ra, diễn ra trong hoan lạc đất trời giao hội.  Từ thiên cao vẳng lại hợp ca của của triệu vạn thiên thần, hát khúc vinh quang Thiên Chúa và chúc lành cho nhân thế.

   Đức Maria trong cơn xuất thần cực sâu, được nâng khỏi mặt đất và vẫn trong thế định niệm, bỗng hé mắt nhìn xuống NGÔI HAI THIÊN CHÚA NHẬP THỂ LÀM NGƯỜI trong hình Hài Nhi, từ đây gọi Người là Mẹ,  đang nằm ngay trên ổ rơm của Mẫu Thân Người.

   Chúa Hài nhi như một khối sáng, sáng từ trong nội-thể ra ngoài, ánh sáng  ấy làm mờ mọi thứ khắp hang. Người đang thiêm thiếp nằm sát bên gối Đức Bà.  Dưới dạng Hài nhi toàn sáng, Chúa Con như mỗi lúc hình thể một nẩy nở thêm ra.

   Đức Mẹ vẫn còn trong cơn định niệm thêm giây lát, nhưng rồi Người tỉnh lại phần nào, giơ tay tìm một chiếc khăn trắng để sẵn trong túi đựng quần áo, lấy ra phủ trên Hài Nhi.  Đức Mẹ chưa đụng tới Quý Tử. Trong chốc lát, Chúa Con dãy dụa rồi khóc oà lên. Đó là tiếng khóc chào đời của trẻ sơ sinh vừa lọt lòng.  Nghe tiếng Con khóc, lúc đó Đức Mẹ mới thật sự trở về thực tại.  Người bế Con lên, bọc khăn lại gọn ghẽ, kỹ càng,  rồi ôm Con vào lòng, ghì sát ngực mình.  Đức Mẹ ngồi xuống, kéo chiếc khăn đang bum trên đầu mình,  choàng luôn cả khắp mình Con và cho Con bú.  

  Vây quanh Chúa Hài Nhi và Thánh Mẫu Người, nhiều thiên thần chầu chực,  hát ca, thờ lạy.

   Một giờ đồng hồ trôi qua hết sức mau lẹ, kể từ lúc Chaú Con sinh ra.  Thánh Giuse còn đang sấp mình xuống đất cầu nguyện ở góc hang của mình, thì Đức Mẹ lên tiếng gọi Người.  Thánh Giuse trịnh trọng bước lại gần,  dáng vẻ rất khiêm cung và nồng hậu. Tới khi Đức Mẹ bồng Chúa Con từ trong lòng trao ra, thì Thánh Giuse mời ngẩng đầu , hai tay nâng cao rước lấy Hài Nhi, lòng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, hai dòng lệ mừng vui thi nhau trào ra, rơi lã chã….              

* * *  

 Đức Mẹ bọc con lại gọn ghẽ kỹ lưỡng hơn. Trong tinh thần đơn sơ nghèo khó, Người chỉ mang theo dự phòng cả thảy có bốn vuông tã trắng để lót cho con.  Cuốn bọc  xong, Đức Mẹ đặt  Con xuống ổ cỏ ngay trước mặt mình.  Hài Nhi ngủ ngon lành bình an.  Hai Vị từ từ ngồi xuống, gần cạnh nhau, im lặng, đắm mình trong chiêm niệm.

    Trong thạch động cô quạnh vắng lặng nầy, sự cứu độ của toàn nhân loại đang hiện hữu tại đây.  Bàn dân thiên hạ nào có ái ngờ…!

   Lát sau, Đức Mẹ và Thánh Giuse đặt Chúa Con vào trong máng cỏ, rồi hai Vị qùy xuống hai bên, thảy đều lệ tuôn đầm đìa, niềm hoan  lạc dâng cao ngất ngây trong lòng.  Hai Vị khẽ tung hô những lời ngợi khen Chúa.

   Thánh Giuse dọn chiếc ghế và cái ổ cỏ của Đức Mẹ xích lại sát máng cỏ,  tiện cho Người săn sóc hài nhi.  Sau khi hạ sinh Chúa Con, Đức Mẹ đã vận chiếc áo trắng dài, phủ kín gót chân. Liền trong mấy ngày sau khi Chúa Con ra đời, Đức Mẹ lúc nào cũng hoặc ngồi, hoặc qùy, hoặc đứng,  mà ngay cả nằm ngủ nghỉ cũng ở liền sát cạnh máng cỏ, chẳng giây phút nào rời xa nửa bước.  Một điều đặc biệt là Người vẫn khoẻ mạnh,  chẳng ốm đau bệnh tật, mà cũng chẳng tỏ ra một nhọc gì hết.  

---------------------

Chân phước A. C.  Emmerich lúc ấy nhìn thấy ở khắp nơi, cả tận những xứ xa xôi, một niềm vui tràn lan như gió đến trong lòng nhiều người,  và cả trong loài vật cùng thiên nhiên.  Niềm vui ấy kỳ lạ chưa từng xãy đến cho trần gian bao giờ, diễn ra suốt đềm Chúa Giáng Sinh.  Con Suối phía Nam đồi bỗng áo ạt chảy như thác. Trời vùng Bêlem bỗng rực sáng mầu hồng nhạt. Toàn thể khu đồi có hang Bêlem và cánh đồng chiên cừu ngay đấy, người ta thấy có làn hơi bốc sáng, bay lênh như những dải tường vân.

* * *

  Đêm Thánh! Đêm Thánh đã mang Ánh sáng đến cho trần gian…!

  “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5).  “Ngôi Lời là Ánh Sáng thật, Ánh  Sáng đến thế gian và chiếu soi moị người” (Ga 1: 9).  “Ngôi Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”(Ga 1: 14).  “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”( Ga 1:12).  Và

VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI

BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG”(Lc 2;14)

 

Tác giả Ân Giang

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Lễ Đức Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa (12/30/2008)
Đức Mẹ Maria, Người Mẹ Tâm Niệm (12/30/2008)
Ls: Ảnh Tượng Mẹ (12/29/2008)
Hoa Kỳ: Hàng Triệu Trẻ Vô Sinh Đang Run Sợ Trước Nhiệm Kỳ Tổng Thống Của Ông Barack Obama Sắp Tới (12/27/2008)
Lời Mẹ Nhắn Nhủ Trong Đêm Giáng Sinh: (12/26/2008)
Tin/Bài cùng ngày
Ls: Lễ Giáng Sinh Nơi Trại Tù Cải Tạo Cộng Sản (12/25/2008)
Lễ Giáng Sinh: Thứ Năm 25-12, Ngày Sinh Nhật Ðức Giêsu (12/25/2008)
Tin/Bài khác
Lời Nguyện Đêm Giáng Sinh (12/24/2008)
Audio Linh Hồn Mồ Côi Về Nói Chuyện, Tức Là Một Linh Hồn Kêu Cứu, # 1-2 (12/23/2008)
Giáng Sinh 2008; Nhân Vị Là Trọng Tâm Của Hoà Bình (12/23/2008)
Lời Tâm Sự Của Mẹ Maria Về Đêm Thánh, Đêm Chúa Giáng Sinh (12/23/2008)
Kinh Truyền Tin Được Coi Như Nhắc Nhở Lời “xin Vâng Của Mẹ Maria (12/22/2008)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768