Cuộc Đời và Phép Lạ Của Thánh Hardini, Nước Li Băng
§ Kim Hà
Nguồn: Hardini.org
Thánh Hardini, vị thánh thứ tư của Nước Li Băng
I. Cuộc Sống Của Cha Thánh Hardini:
Thánh Hardini
Linh Mục Hardini tên thật là Joseph Kassab, sinh năm 1808. Cha của ngài tên là ông George Kassab và mẹ của ngài tên là bà Marium Raad. Bà là con của tu sĩ Yousef Yacoub. Ngài có 4 người anh em và 2 người chị em. Các người anh em của ngài tên là Assaf, Elias, Tanious, Yacoub và tên các chị em của ngài là Masihieh va Mariam. Người anh tên là Eilas của cha Hardini sau trở nên Linh mục Lesha, một tu sĩ ẩn tu ở Qozhaya. Sau đó, ngài ở tại Annaya và qua đời tại nơi ấy. Cha Thánh Charbel thay thế cố linh mục Lesha tại tu viện ở Annaya.
Cha Joseph vào học tại trường của các tu sĩ Thánh Anthony, vùng Houb, kể từ năm 1816 đến 1822. Sau đó, ngài vào tu viện Thánh Anthony Ishaia và trở nên tu sĩ tháng 11 năm 1828. Sau này, ngài nhận tên là LM Nimatullah Kassab Hardini, rồi ngài học cách đóng sách vở.
Ngài tuyên hứa lần đầu vào ngày 14 tháng 11 năm 1830. Sau khi học xong thần học, ngài được thụ phong linh mục, bởi Đức Giám Mục Seiman Awain, trong tu viện ở Kfifan, vào ngày 25 tháng 12 năm 1833.
Ngài trở thành hội viên của Hội Đồng Quản Trị trong ba lần, từ năm 1845 đến 1848, từ năm 1850 đến 1853, từ năm 1856 đến 1858. Tuy là thành viên của Hội Đồng Quản Trị nhưng ngài vẫn tiếp tục đóng sách. Ngài dạy học, đặc biệt là ở vùng Kfifan.
Cha Nimatullah sống một cuộc sống thánh thiện. Ngài là một người chuyên cần cầu nguyện, hoàn toàn thuộc trọn về Chúa. Ngài sống ngày và đêm trong suy niệm, cầu nguyện và thờ lạy Thánh Thể Chúa. Đức Mẹ Đồng Trinh Maria là Thánh Quan Thầy của ngài. Cha Nimatullah luôn cầu nguyện chuỗi kinh Mân Côi. Ngài rất khiêm nhường, nhạy cảm và kiên nhẫn. Ngài sống với tinh thần vâng lời, trong sạch và khó nghèo một cách tuyệt hảo.
Các tu sĩ trong tu viện và những ai biết ngài đều gọi ngài là Đấng Thánh khi ngài vẫn còn sống. Một trong các sinh viên của ngài là LM Charbel Makhlouf (tức là Thánh Charbel),đã theo học với ngài từ năm 1853 đến 1858.
Linh mục Nimatullah Hardini chết trong tu viện ở Kfifan vào ngày 14 tháng 12 năm 1858. ngài qua đời sau 10 ngày bị cơn sốt cao, do cơn gió lạnh của vùng núi miền Bắc nước Li Băng thổi đến. Lúc ấy, ngài mới được 50 tuổi. Khi chết, ngài còn cầm trong tay tấm hình của Đức Mẹ Maria. Lời nói cuối cùng của ngài là:
“Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Maria, trong tay Mẹ, con xin phó thác linh hồn con!”
II. Phép Lạ Mà Cha Thánh Hardini Đã Làm Sau Khi Qua Đời:
1. Ánh sáng và Hương thơm khi ngài qua đời:
Những người ở bên cạnh ngài trong lúc cha Nimatullah chết đều chứng kiến một luồng ánh sáng Thiên đàng tỏa sáng phòng của ngài và một mùi hương thơm tỏa ra ngào ngạt trong phòng của ngài vào nhiều ngày sau đó. Khi vị Bề Trên là cha Boulos Massad nghe tin cha Nimatullah chết thì ngài nhận xét:
“Chúc mừng vị tu sĩ đã biết sinh lợi ích từ đời sống tu sị.”
2. Xác ngài không hư hại với thời gian:
Một thời gian sau, các tu sĩ khai quật mộ của Cha Nimatullah và họ ngạc nhiên khi thấy xác của ngài không bị hư hại. Xác ngài được chuyển đi và đăt vào một quan tài gần nhà thờ. Sau khi được giáo quyền cho phép, từ năm 1864, các khách thăm viếng được nhìn thấy xác không hư hại của cha Nimatullah cho đến năm 1927.
Trong năm ấy, có một Ủy ban điều tra kỹ lưỡng về việc phong thánh cho cha Nimatullah. Xác của ngài được chôn nơi bức thành cong cong của phòng ngài, trước khi được chuyển về một nhà nguyện mà các khách viếng thăm có thể đến để tham dự các thánh lễ.
Ngài được tôn vinh là Bậc Đáng Kính vào ngày 7 tháng 9 năm 1989. Sau đó, được Đấng Bề Trên Nasrallah Peter Sfeir cho phép, xác của ngài được khám nghiệm và đặt vào một quan tài mới ngày 18 tháng 5 năm 1996. Gần đây, xác ngài lại được chuyển vào một quan tài khác và đặt ở tu viện của vùng Kfifan, nơi mà người ta có thể thăm viếng.
3. Các phép lạ chữa lành qua sự cầu bầu của ngài:
Qua lời cầu bầu của Thánh Hardini mà có nhiều ơn chữa lành xẩy ra, trong đó có các phép lạ như sau:
1. Một em bé người Hồi Giáo mà mẹ bé đã tuyên bố là chết, thế mà nhờ lời cầu bầu của ngài mà bé được hồi sinh.
2. Một người bị bịnh óc não mà được chữa lành hoàn toàn.
3. Một người mù được sáng mắt,
4. Và một người bị bịnh ung thư mà được chữa lành.
5. Việc chữa lành bịnh ung thư máu cho anh Andre Najm:
Việc chữa lành này vừa được điều tra bởi Cộng Đồng Y Khoa Quốc Tế. Anh Andre Najm, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1966. anh ta mạnh khỏe trong suốt 20 năm cuộc đời. Tuy nhiên, vào tháng 6 năm 1986, anh bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và thần kinh bị xáo trộn, nên anh ta không thể đi đứng, dù chỉ một khoảng ngắn. Đã có nhiều bác sĩ ở Li Băng và ngoại quốc bó tay vì không thể chữa lành cho anh. Anh ta bị ung thư máu và cần phải thay máu thường xuyên.
III. Cha Thánh Hardini Làm Phép Lạ Khi Còn Sống
Trong đời sống của cha Thánh Nimatullah, ngài làm nhiều phép lạ vì ngài có đời sống cầu nguyện thiêng liêng sâu lắng, có các đức tính tuyệt hảo, và linh hồn ngài luôn trong sạch. Ngài luôn kết hợp với Đấng Tối Cao qua lời cầu nguyện. Ngưới ta gọi ngài là Thánh của Kfifan. Ngài có ơn tiên tri, và được biết đến như là người có thị kiến.
1. Tiên tri bức tường bị sập:
Một lần kia, khi ngài đang giảng dậy học sinh và đối diện với một bức tường lớn ở bên ngoài tu viện Kfifan. Ngài cảm thấy bức tường ấy sắp bị sụp đổ. Do đó, ngài bảo các học sinh hãy tránh xa bức tường, trước khi nó sụp đổ. Vì thế mà không ai bị thương cả.
2. Tiên tri trang trại nuôi đàn bò bị sập:
Trong một trường hợp khác, cha Nimatullah được ơn soi sáng rằng trang trại chứa đàn bò của tu viện Kfifan sẽ sụp đổ. Đàn bò được xem như vốn liếng nuôi sống tu viện. Vì thế, cha xin vị tu sĩ phụ trách hãy đưa đàn bò ra khỏi trang trại ấy. Mới đầu, vị tu sĩ do dự, nhưng cha Nimatullah năn nỉ và thúc giục vị tu sĩ ấy phải hành động ngay. Sau khi đàn bò được di chuyển ra phía khác thì trang trại sập xuống mà không một con bò nào bị mất.
3. Chữa lành một chú bé giúp lễ:
Trong một trường hợp khác, cha Nimatullah muốn cử hành Thánh lễ hàng ngày mà chú giúp lễ lại không đến đúng giờ. Cha bèn đến phòng chú giúp lễ thì mới biết là chú bị bịnh sốt rất cao. Cha Nimatullah bèn kêu chú bé đứng lên, và ngài ra lệnh cho cơn bịnh phải đi ra ngay khỏi chú. Chú bé được chữa lành tức khắc và chú vội đi giúp lễ ngay với niềm vui và sự sinh động.
4. Kho Lương thực:
Có một lần kia, cha Nimatullah cầu nguyện trên nhà kho Lương thực và chúc lành cho kho ấy. Đây là kho chứa lúa mì và các thực phẩm khác của tu viện ở El-Kattara. Hôm ấy kho đã cạn hết lương thực. Ngay sau khi ngài cầu nguyện thì kho bỗng có đầy thực phẩm, đến nỗi rơi vãi ra ngoài kho. Mọi người đều kinh ngạc và ca ngợi Chúa vì những gì mà chính mắt họ đã thấy.
Khi cha còn sống thì các tu sĩ trong tu viện và các giáo dân đều cho rằng Cha Nimatullah là một Đấng Thánh. Họ thường đến xin ngài cầu nguyện cho họ và chúc lành nước mà họ sẽ dùng để tưới đất và cho các thú vật uống. Sự hiện diện của cha Thánh luôn làm cho mọi người kính trọng, tôn kính và nể sợ.
IV. Các Chứng Nhân Nhận Được Ơn Chữa Lành Của Thánh Hardini:
1. Chữa lành bịnh mù:
Sau khi cha Thánh chết, Chúa ban nhiều ơn chữa lành và phép lạ qua lời cầu bầu của Cha Thánh Kfifan. Ơn chữa bịnh mù loà xẩy ra cho một tín đồ Chính Thống giáo, tên là Moussa Saliba. Anh này ở thành phố Btegrin, El-Maten. Anh Moussa Saliba đến viếng mộ của Thánh Hardini, cầu nguyện và xin ngài chúc lành. Sau đó, anh ta cảm thấy buồn ngủ, và cha Thánh Nimatullah hiện ra với anh và chữa lành đôi mắt anh. Từ đó, anh ta thấy rõ mọi sự.
2. Chữa lành đôi chân bị teo và liệt:
Một phép lạ khác xẩy ra cho một người Công giáo Melkite tên là Mickael Kfoury, từ thành phố Watta El-Mrouge. Đôi chân anh này bị bịnh nên khô cứng lại, teo thịt và cong queo, Khiến anh ta trở thành tàn tật. Các bác sĩ cho rằng cơn bịnh này không có hy vọng được chữa lành.
Khi nghe tin cha Thánh Nimatullah làm nhiều phép lạ nên anh này quyết định đến viếng mộ của cha Thánh ở Kfifan để xin Ngài chữa lành cho. Anh Mickael ngủ đêm ở tu viện. Khi anh đang ngủ ngon thì một tu sĩ già hiện ra với anh và nói:
“Nè anh, hãy đứng lên mà đi giúp các tu sĩ đem nho từ vườn nho vào.”
Anh ta lập tức thưa:
“Thưa cha, con bị tê liệt, làm sao con có thể bước đi mà đem nho vào được?”
Vị tu sĩ đáp:
“Con hãy đi đôi giày này, và bứơc đi.”
Anh ta vội lấy đôi giày mang vào chân, rồi anh cố gắng kéo chân phải ra. Anh ta kinh ngạc khi thấy mình có thể làm điều ấy. Anh tỉnh giấc và bắt đầu cảm thấy đôi chân mình có đầy máu và thịt. Khi anh ta đứng lên thì anh thấy mình hoàn toàn bình phục.
3. Chữa lành bịnh ung thư máu (đã trình bày ở trên.)
Anh Andre Najm làm chứng thêm về ơn chữa lành mà anh nhận được từ cha Thánh Hardini:
Ngày 26 tháng 9 năm 1987, anh Andre và gia đình cùng bạn bè đi đến tu viện Kfifan. Ở nơi ấy, anh ta cầu nguyện sốt sắng tại ngôi mộ của Thánh Hardini. Người ta nghe anh ấy cầu nguyện như sau:
“Lạy Cha Thánh Hardini, con xin cha cho con một giọt máu vì con quá mệt mỏi đến nỗi con phải xin tiếp máu trên đường đi.”
Sau đó, anh Andre xin được mặc áo tu phục (áo Dòng) của tu viện. Mấy phút sau, anh cảm thấy được chữa lành. Anh khóc to lên vì vui sướng:
Tôi đã mặc áo tu phục và được chữa lành. Tôi không cần thay máu nữa!”
Kể từ ngày ấy trở đi, Andre không cần sự thay máu nữa. Vào năm 1991, anh cưới cô Rola Salim Raad. Họ có hai con, một con trai tên là Charbel, một con gái tên là Rafca. Đó là tên của hai vị Thánh nước Li Băng. Bây giờ, anh Andre hoàn toàn mạnh khỏe.
Sau bao nhiêu thủ tục điều tra và chấp nhận, ngày 10 tháng 5 năm 1998, Cha Thánh Nimatullah Hardini được phong thánh bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị. Giáo Hội Maronite mừng kính ngài vào ngày 14 tháng 12 mỗi năm.
IV. Đời Sống Thánh Hardini Là Một Phép Lạ:
Trên đây chỉ là một số trong các phép lạ của Cha Thánh Nimatullah Hardini mà thôi. Cuộc đời Ngài là một phép lạ nhãn tiền. Tuy nhiên, các phép lạ lớn lao nhất mà Thánh Hardini đã làm là có vô số người trở lại với Chúa, nhờ lời cầu bầu của ngài, và nhờ gương sáng sống đạo của Ngài. Đặc biệt là rất nhiều tu sĩ vì nhận thức được chiều sâu thiêng liêng và sự giàu có tâm linh của Thánh Hardini mà quyết định đi trên con đường trung thành với Chúa Giêsu Ki Tô để được ơn cứu độ.
Xin các Thánh Charbel, Rafca, Maroun va Hardini cầu bầu cho thế giới được hòa bình và cho dân tộc Li Băng khỏi cảnh chết chóc, mất thân nhân, mất nhà cửa và công việc làm.
Xin các Ngài cầu bầu cho gia đình chúng con, cho dân tộc Việt Nam và Hoa Kỳ cùng toàn thế giới được ơn hoán cải, cậy trông vào Lòng Thương Xót và sự cầu bầu mạnh thế của Đức Trinh Nữ Maria, Cha Thánh Giuse và toàn thể các Thánh, và các linh hồn Thánh Thiện dưới Luyện ngục. Amen.,
Kim Hà 28/7/06
|