TUYÊN NGÔN VỀ GIÁO DỤC KITÔ GIÁO
Lời mở đầu. Vai trò vô
cùng quan trọng của việc giáo dục trong đời
sống con người và ảnh hưởng của nó luôn
gia tăng trên đà tiến triển của xã hội
hiện nay đã được Thánh Công Ðồng
đặc biệt lưu ý 1. Quả thực, hoàn cảnh của
thời đại chúng ta làm cho việc giáo dục thanh
thiếu niên, ngay cả việc tiếp tục huấn
luyện 1* giới trưởng thành, trở nên
ngày một dễ dàng và khẩn cấp hơn. 2* Vì ý thức đầy đủ hơn
về phẩm giá và bổn phận của mình, nên con
người ao ước được tham dự tích
cực hơn vào đời sống xã hội, nhất là
đời sống kinh tế và chính trị 2.
Những
tiến bộ kỳ diệu trong lãnh vực kỹ
thuật và nghiên cứu khoa học, những phương
tiện truyền thông xã hội tân tiến hiến cho con
người hoàn cảnh thuận tiện, nhờ đó con
người còn nhiều thời giờ nhàn rỗi, không
vướng mắc công việc, dễ dàng tham dự vào gia
sản văn hóa và tinh thần, và bổ túc lẫn nhau
nhờ những liên lạc mật thiết hơn giữa
các đoàn thể cũng như giữa chính các dân tộc.
Bởi
đó khắp nơi đều cố gắng đẩy
mạnh công cuộc giáo dục mỗi ngày một hơn.
Người ta thừa nhận những quyền lợi
căn bản liên hệ đến việc giáo dục
của con người, 3* nhất là của trẻ em và cha mẹ.
Các quyền lợi ấy được xác định
trong nhiều văn kiện chính thức 3. Trước con số học sinh gia
tăng mau chóng, 4* người ta gia tăng trường
ốc và cải tiến học đường, thiết
lập thêm những cơ sở giáo dục khác. Các
phương tiện giáo dục và giảng huấn được
canh tân dựa vào những kinh nghiệm mới. 5* mặc dù đã có nhiều nỗ
lực lớn lao để đem lại những lợi
ích trên cho mọi người, nhưng vẫn còn rất
nhiều trẻ em và thanh thiếu niên chưa
được hưởng sự huấn luyện căn
bản và biết bao người khác vẫn còn thiếu
một nền giáo dục thích hợp để phát huy chân
lý và bác ái.
Vì vậy,
để chu toàn sứ mệnh mà Chúa là Ðấng sáng lập
đã trao ban, là loan truyền mầu nhiệm ơn cứu
độ cho mọi người và thiết lập mọi
sự trong Chúa Kitô, Mẹ Thánh Giáo Hội có nhiệm vụ
săn sóc toàn diện đời sống con người 6*, kể cả đời sống
trần tục, trong mức độ liên hệ với
lời mời gọi của Thiên Chúa 4. Vì thế Giáo Hội thông phần vào
việc mở mang và phát huy nền giáo dục. 7* Do đó, Thánh Công Ðồng tuyên bố
một số nguyên tắc căn bản về giáo dục
Kitô giáo, nhất là giáo dục học đường.
Một Ủy Ban đặc biệt sau Công Ðồng phải
giải thích cặn kẽ và các Hội Ðồng Giám Mục
phải thích nghi các nguyên tắc đó tùy theo hoàn cảnh
khác biệt tại mỗi địa phương.
1. Quyền hưởng một nền giáo dục
xứng hợp. Tất cả
mọi người, không phân biệt chủng tộc, giai
cấp và tuổi tác, do phẩm giá con người,
đều có một quyền bất khả nhượng
là phải được hưởng một nền giáo
dục 5 đáp ứng với sứ mệnh riêng
6, 8* phù hợp với cá tính 9* của từng phái 10*, thích nghi với văn hóa và truyền
thống dân tộc 11*, đồng thời mở rộng
sự hợp tác huynh đệ với các dân tộc khác,
để hỗ trợ công cuộc hợp nhất chân
chính và hòa bình trên mặt đất 12*. Vậy nền giáo dục chân chính là
việc đào tạo con người, nhằm đạt
tới cùng đích của mình cũng như lợi ích
của các đoàn thể mà họ là đoàn viên, và họ
sẽ tham gia phục vụ khi đến tuổi
trưởng thành 13*.
Bởi
thế, phải để ý đến những tiến
triển 14* của khoa tâm lý, sư phạm và giáo
khoa, hầu giúp trẻ em và thanh thiếu niên phát triển
điều hòa những năng khiếu thể xác, luân lý và
tinh thần, ý thức dần dần trách nhiệm cách rõ
rệt hơn, nhờ luôn cố gắng trau dồi đúng
mức đời sống cá nhân và theo đuổi sự
tự do chân chính, 15* với lòng can đảm và kiên nhẫn
lướt thắng mọi trở ngại. Phải tích
cực và thận trọng giáo dục chúng về phái tính 16* tùy tứng lứa tuổi. Ngoài ra,
phải huấn luyện cho chúng biết tham dự
đời sống xã hội, để sau khi
được chỉ dẫn đầy đủ về
những phương tiện cần thiết và thích
hợp, chúng có thể tích cực dấn thân 17* vào những đoàn thể khác nhau
của cộng đoàn nhân loại sẵn sàng đối
thoại với người khác cũng như hăng say
hoạt động để góp phần thực hiện
lợi ích chung.
Cũng
vậy, Thánh Công Ðồng còn tuyên bố rằng trẻ em và
thanh thiếu niên có quyền được hướng
dẫn trong việc phê phán những giá trị luân lý theo
lương tâm thẳng thắn, tự ý 18* chấp nhận và tuân giữ những
giá trị ấy và nhận biết yêu mến Thiên Chúa cách
hoàn hảo hơn. Vì thế Công Ðồng tha thiết mời
gọi những nhà lãnh đạo các dân tộc hãy
hướng dẫn công việc giáo dục, hãy lo lắng
sao cho giới trẻ không bao giờ bị tước
mất quyền lợi thiêng liêng ấy 19*. Công Ðồng còn khuyên nhủ các con cái
Giáo Hội hãy quảng đại hoạt động trong
mọi lãnh vực giáo dục, nhất là để có thể
sớm đem lại những lợi ích của một
nền giáo dục và giáo huấn xứng hợp cho mọi
người ở khắp nơi trên toàn thế giới 7.
2. Nền giáo dục Kitô giáo. Mọi Kitô hữu 20*, nhờ việc tái sinh bởi
nước và Thánh Thần, đã trở nên những
tạo vật mới 8, được gọi là con Thiên Chúa và
quả thực như thế, nên có quyền hưởng
một nền giáo dục Kitô giáo. Nền giáo dục này
không chỉ nhằm giúp con người được
trưởng thành như vừa trình bày, nhưng cốt
yếu là nhằm giúp những người đã rửa
tội ngày càng ý thức hơn về hồng ân Ðức Tin
đã nhận lãnh trong khi họ được
hứơng dẫn để dần dần hiểu
biết mầu nhiệm cứu rỗi. Nền giáo dục
ấy còn giúp họ biết cách thờ phượng Thiên
Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (x. Gio 4,23), nhất là qua
việc cử hành phụng vụ 21*, cũng như huấn luyện họ
biết sống theo con người mới trong công bình và
thánh thiện của chân lý (Eph 4,22-24). Nhờ vậy họ
đạt tới con người hoàn thiện, tới
tuổi sung mãn của Chúa Kitô (x. Eph 4,13) và góp phần vào
việc tăng trưởng của Nhiệm Thể 22*. Hơn nữa, vì ý thức
được ơn kêu gọi của mình, chính họ
phải tập thói quen minh chứng niềm cậy trông
của mình (x. 1P 3,15) cũng như phải giúp cải
tạo thế giới theo tinh thần Kitô giáo. Nhờ
đó những giá trị tự nhiên sẽ góp phần vào
lợi ích của toàn thể xã hội 23*, khi được hòa hợp vào
viễn ảnh toàn vẹn của con người
được Chúa Kitô cứu chuộc 9. Vì vậy Thánh Công Ðồng nhắc
lại cho những Chủ Chăn hướng dẫn các
linh hồn nhiệm vụ rất quan trọng là phải
thu xếp mọi sự để các tín hữu
được hưởng nhờ nền giáo dục Kitô
giáo nhất là giới trẻ, niềm hy vọng của
Giáo Hội 10.
3. Những người lãnh nhận trách nhiệm giáo
dục. Vì là người
truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ 24* có bổn phận hết sức quan
trọng là giáo dục chúng và vì thế họ
được coi là những nhà giáo dục đầu tiên
và chính yếu của chúng 11. Vai trò giáo dục này quan trọng
đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ
khuyết được. Thực vậy, chính cha mẹ có
nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí
thấm nhuần tình yêu cũng như lòng tôn kính đối
với Thiên Chúa và tha nhân, để hỗ trợ việc
giáo dục toàn diện cho con cái trong đời sống cá
nhân, để hỗ trợ việc giáo dục toàn
diện cho con cái trong đời sống cá nhân và xã hội.
Do đó gia đình là trường học đầu tiên 25* dạy các đức tính xã hội
cần thiết cho mọi đoàn thể. Nhưng
đặc biệt trong gia đình Kitô giáo, 26* vì đã nhận ân sủng cũng
như bổn phận của bí tích hôn phối, nên cha
mẹ phải dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ,
để chúng nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu
mến tha nhân theo đức tin chúng đã lãnh nhận khi
chịu phép rửa tội. Chính tại nơi đây, con
trẻ có kinh nghiệm đầu tiên về xã hội lành
mạnh của nhân loại và về Giáo Hội. Sau hết
nhờ gia đình, chúng được hướng dẫn
dần dần vào cộng đoàn nhân loại cũng như
vào Dân Thiên Chúa. Bởi vậy cha mẹ phải ý thức sâu
xa tầm quan trọng của gia đình Kitô giáo đích
thực trong đời sống và đà thăng tiến
của chính dân Thiên Chúa 12.
Nhiệm
vụ giáo dục trước hết thuộc về gia
đình, nhưng cũng cần đến sự trợ
giúp của toàn thể xã hội. 27* Thực vậy, ngoài những quyền
lợi của cha mẹ và của những người
được cha mẹ ủy thác cho một phần công
việc giáo dục, chắc chắn xã hội dân sự
cũng còn có những quyền lợi và bổn phận vì
xã hội dân sự có nhiệm vụ tổ chức
những gì đem lại lợi ích chung trong phạm vi
thế tục. Một trong những gì đem lại
lợi ích chung trong phạm vi thế tục. Một trong
những bổn phận của xã hội dân sự là
đẩy mạnh công cuộc giáo dục giới trẻ
bằng nhiều phương cách, như bảo vệ
quyền lợi cha mẹ và những người góp
phần vào việc giáo dục và phải giúp đỡ
họ trong công tác đó. Theo nguyên tắc đồng trách
nhiệm, khi cha mẹ và các đoàn thể khác thiếu sáng
kiến, xã hội dân sự phải kiện toàn công
việc giáo dục, nhưng cũng phải để ý
đến nguyện vọng của cha mẹ. Ngoài ra còn
phải thiết lập các trường ốc và cơ
sở giáo dục riêng theo lợi ích chung đòi hỏi 13.
Sau cùng
với danh nghĩa đặc biệt, Giáo Hội có trách
nhiệm giáo dục 28* không những vì Giáo Hội là xã hội
trần gian, phải được thừa nhận có
khả năng giáo dục, 29* nhưng nhất là vì Giáo Hội có
nhiệm vụ loan truyền cho mọi người
biết con đường cứu rỗi, cũng như
thông ban sự sống Chúa Kitô cho các tín hữu và luôn lo
lắng giúp đỡ họ đạt tới sự viên
mãn của đời sống ấy 14. Bởi vậy như một
Người Mẹ, Giáo Hội có nhiệm vụ bảo
đảm cho con cái một nền giáo dục, đem tinh
thần Chúa Kitô thấm nhuần đời sống chúng,
nhưng đồng thời cũng cổ võ mọi dân
tộc phát triển sự hoàn thiện toàn vẹn của
con người, phục vụ lợi ích của xã hội
trần thế và xây dựng một thế giới nhân
đạo hơn 15.
4. Phương thế của nền giáo dục Kitô
giáo. Ðể chu toàn nhiệm
vụ giáo dục, Giáo Hội quan tâm đến tất
cả các phương thế thích hợp, đặc
biệt là những phương thế riêng của mình.
Trước hết là việc giảng dạy giáo lý 16 nhằm soi sáng và củng cố
đức tin, nuôi dưỡng đời sống theo tinh
thần Chúa Kitô, đưa đến việc ý thức và
tham dự linh động vào mầu nhiệm phụng
vụ 17, khuyến khích hoạt động tông
đồ. Nhưng Giáo Hội cũng tôn trọng và tìm cách
đem tinh thần mình thấm nhuần và nâng cao những
phương thế khác 30* thuộc di sản chung của nhân
loại và góp phần lớn lao vào việc trau dồi tinh
thần và đào luyện con người, như các
phương tiện truyền thông xã hội 18, các tổ chức có mục đích
tập luyện tinh thần và thể xác, các phong trào thanh
thiếu niên và nhất là các trường học.
5. Tầm quan trọng của học đường. Trong tất cả các phương tiện giáo
dục, học đường 31* giữ một vai trò quan trọng
đặc biệt 19, vì học đường theo sứ mạng
mình luôn lo lắng trau dồi các khả năng tinh thần,
dẫn vào gia sản văn hóa mà các thế hệ
trước đã thu lượm được, phát huy
nhận thức về các giá trị, chuẩn bị
đời sống nghề nghiệp, và khuyến khích
niềm thông cảm lẫn nhau trong khi cổ cõ tình thân
hữu cộng đoàn giữa những học sinh khác
biệt về tâm linh và giai cấp. Hơn nữa học
đường còn trở nên trung tâm hoạt động và
tiến triển, tại đây cần đến sự
tham dự của gia đình, thầy dạy, mọi
đoàn thể có mục đích phát triển đời
sống văn hóa, đời sống công dân và tôn giáo,
cả chính quyền cũng như toàn thể cộng
đoàn nhân loại.
Như
thế, thực cao đẹp nhưng cũng thực
nặng nề thiên chức của tất cả những
ai giúp đỡ cha mẹ chu toàn nhiệm vụ của
họ và thay thế cộng đoàn nhân loại nhận lãnh
chức vụ giáo dục nơi học đường.
Thiên chức này dòi phải có những tài năng đặc
biệt về trí tuệ và tâm hồn, được
chuẩn bị hết sức kỹ càng, với thái
độ sẵn sàng canh tân và thích nghi không ngừng.
6. Nhiệm vụ và quyền lợi của cha mẹ. Nhiệm vụ và quyền lợi đầu tiên
bất khả nhượng của cha mẹ là giáo dục
con cái, nên họ phải được thực sự
tự do trong việc lựa chọn trường học.
Do đó, vì có bổn phận bảo vệ và bênh vực
quyền tự do của công dân, chính quyền khi chú tâm
đến công bằng phân phối 32* phải lo phân chia những ngân khoản
tài trợ chung sao cho cha mẹ có thể được
thực sự tự do lựa chọn trường
học cho con cái theo lương tâm mình 20.
Ngoài ra chính
quyền còn có bổn phận lo liệu cho mọi công dân
được tham dự thực sự vào nền văn
hóa và được huấn luyện thích đáng
để thi hành nhiệm vụ và quyền lợi công dân.
Bởi thế chính quyền phải bảo đảm cho
thanh thiếu niên được hưởng một
nền giáo dục học đường đầy
đủ, phải quan tâm đến khả năng của
nhà giáo và trình độ học vấn của học sinh
cũng như phải chăm sóc đến cả sức
khỏe của chúng. Như thế chính quyền phải
phát triển toàn diện học chế, nhưng
đừng quên nguyên tắc đồng trách nhiệm. Do
đó phải loại trừ mọi chế độ
độc quyền học hiệu 33*, vì tất cả mọi chế
độ độc quyền thuộc loại này
đều trái với quyền tự nhiên của con
người, cản trở sự tiến bộ và
việc phổ biến văn hóa, làm tan loãng bầu khí
thuận hòa giữa các công dân và nghịch với thuyết
đa dạng 34* mà ngày nay đang thịnh hành tại
nhiều cộng đoàn 21.
Do đó,
Thánh Công Ðồng khuyến khích các Kitô hữu hãy tự
động góp phần vào việc khám phá những
phương pháp giáo dục thích hợp, cách tổ chức
việc học hành và góp phần vào việc đào tạo
các giáo chức có khả năng giáo dục thanh thiếu
niên một cách đúng đắn bằng cách hỗ trợ
họ, và nhất là qua các hội phụ huynh học sinh, phải
theo dõi và nâng đỡ mọi công việc của nhà
trường, đặc biệt việc giáo dục luân lý
được giảng dạy nơi đó 22.
7. Giáo dục luân lý và tôn giáo nơi học
đường. Hơn nữa, ý
thức sâu xa nhiệm vụ vô cùng quan trọng là phải
ân cần lo lắng giáo dục mọi con cái mình về
phương diện luân lý và tôn giáo. Giáo Hội, bằng tấm
lòng ưu ái và trợ giúp đặc biệt cần
phải hiện diện cho biết bao thanh thiếu niên
đang được đào luyện trong các trường
không công giáo. 35* Sự hiện diện ấy
được cụ thể hóa qua chứng từ
đời sống của người giảng dạy và
hướng dẫn chúng, qua việc tông đồ của
các bạn học 23, và nhất là qua lời giảng dạy
giáo lý cứu rỗi của những linh mục và giáo dân có
trách nhiệm bằng những phương pháp thích hợp
với lứa tuổi và hoàn cảnh, cùng với việc
giúp đỡ thiêng liêng bằng mọi sáng kiến thích nghi
theo điều kiện thời gian và sự việc.
Giáo Hội
cũng nhắc nhở cho cha mẹ nhiệm vụ quan
trọng cố hữu của họ là phải lo liệu
mọi sự và đòi hỏi sao cho con cái họ có thể
hưởng nhờ những trợ giúp ấy và
được tấn tới trong việc giáo dục theo
tinh thần Kitô giáo và ăn nhịp với giáo huấn trần
thế.
Ngoài ra Giáo
Hội còn ca ngợi những cơ quan cũng như các
đoàn thể dân sự nào chủ trương thuyết
đa dạng trong xã hội hiện nay và chú tâm đến
quyền tự do tôn giáo, giúp đỡ các gia đình
để việc giáo dục con cái nơi học
đường được phù hợp với các nguyên
tắc luân lý và tôn giáo riêng của gia đình họ 24.
8. Trường Công Giáo. Giáo
Hội hiện diện đặc biệt trong lãnh vực
học đường qua trường công giáo. 36* Thực ra trường công giáo cũng
theo đuổi những mục tiêu văn hóa và giáo dục
nhân bản cho thanh thiếu niên không kém gì các trường
khác. Ðiều riêng biệt của trường công giáo là có
sứ mệnh tạo cho môi trường học
đường một bầu khí 37* sống động, thấm nhuần
tự do và bác ái theo tinh thần Phúc Âm, giúp thanh thiếu niên
phát triển nhân cách mình đồng thời làm phát triển
con người mới đã được thành hình khi
chịu phép rửa tội. Sau cùng, trường công giáo còn
phải hướng nền văn hóa chung của nhân
loại vào việc loan truyền ơn cứu rỗi
để cho các học sinh dần dần nhận thức
về thế giới, cuộc đời và con
người nhờ ánh sáng đức tin soi chiếu 25. Như thế trong khi mở cửa
tiếp nhận đúng mức những điều
kiện của thời đại đương tiến
bộ, trường công giáo huấn luyện học sinh
biết mưu cầu lợi ích cho xã hội trần gian
một cách hữu hiệu, và chuẩn bị cho chúng
biết phục vụ để mở mang Nước
Chúa. Do đó, nhờ sống đời gương mẫu
và tông đồ, chúng trở nên như men cứu rỗi cho
cộng đoàn nhân loại.
Thực
vậy, trường công giáo còn giữ một vai trò
rất quan trọng trong hoàn cảnh chúng ta đang sống,
vì có khả năng góp phần lớn lao trong việc chu
toàn sứ mệnh của Dân Thiên Chúa và giúp cuộc
đối thoại 38* giữa Giáo Hội và cộng đoàn
nhân loại nhằm đạt tới lợi ích cho cả
đôi bên. Vì thế Thánh Công Ðồng tuyên bố một
lần nữa rằng Giáo Hội có quyền thiết lập
và điều khiển các trường thuộc các cấp
và các ngành, như Quyền Giáo Huấn đã xác nhận qua
nhiều văn kiện 26. Công Ðồng cũng nhắc lại
rằng việc thi hành quyền lợi này sẽ đóng góp
nhiều cho việc bảo đảm tự do lương
tâm và những quyền lợi của cha mẹ cũng
như sự tiên bộ của nền văn hóa 39*.
Tuy nhiên các
nhà giáo nên nhớ rằng họ là những nhân vật chính
giúp cho trường công giáo thực hiện được
những chương trình và sáng kiến của mình 27. Vậy họ phải được
chuẩn bị 40* hết sức chu đáo để lãnh
hội những kiến thức đạo đời,
được chứng thực do những văn bằng
tương xứng, cũng như phương thức giáo
dục phù hợp với những phát minh của thời
đại tiến bộ. Các nhà giáo dục, nhờ liên
kết với các bạn đồng nghiệp và với các
học sinh trong tình bác ái và thấm nhiễm tinh thần tông
đồ, sẽ làm chứng cho một vị Thầy duy
nhất là Chúa Kitô bằng đời sống cũng như
bằng lời giảng dạy. Hãy cộng tác với nhau,
nhất là với các bậc phụ huynh, và trong suốt
thời gian giáo huấn, hãy cùng với họ quan tâm đúng
mức đến sự khác biệt phái tính 41* và mục đích riêng của cả hai
phái trong gia đình cũng như ngoài xã hội do Chúa Quan
Phòng đã đặt định. Hãy cố gắng
khuyến khích học sinh làm việc riêng, 42* và khi thời gian học tập
chấm dứt, hãy tiếp tục liên lạc với chúng
bằng những ý kiến xây dựng, tình thân hữu và
bằng việc thành lập các hiệp hội theo đúng
tinh thần của Giáo Hội. Thánh Công Ðồng cũng tuyên
bố rằng chức vụ của nhà giáo là một
hoạt động tông đồ đích thực, rất
thích hợp và cần thiết cho thời đại chúng
ta, đồng thời là một phục vụ chính đáng
cho xã hội. Công Ðồng còn nhắc nhở cho cha mẹ
công giáo bổn phận ký thác con em vào các trường công
giáo nếu hoàn cảnh thời gian và nơi chốn cho phép.
Phải tùy khả năng nâng đỡ và hợp tác
với các trường ấy để mưu cầu
lợi ích cho con em mình 28.
9. Các loại trường Công Giáo. Tất cả các trường tùy thuộc Giáo
Hội bằng bất cứ cách nào phải phù hợp
với hình ảnh của trường công giáo trên theo
khả năng mình, dù có thề mang những hình thức khác
nhau tùy hoàn cảnh địa phương 29. Hội Thánh rất khen ngợi
những trường công giáo hâu nhận cả những
học sinh không công giáo, nhất là ở những miền
thuộc các Giáo Hội tân lập.
Ngoài ra, khi
thiết lập và điều hành các trường công giáo,
cần phải để ý đến những nhu cầu
của thời tân tiến. Vì thế, trong khi quan tâm đến
các trường tiểu học và trung học là nền
tảng của việc giáo dục, người ta cũng
phải chú trọng tới những trường do hoàn
cảnh hiện tại đòi hỏi, chẳng hạn
những trường chuyên nghiệp 30 và kỹ thuật 43*, những viện giáo huấn cho
lứa tuổi trưởng thành, cổ võ công tác cứu
trợ xã hội, và cả những nhà dành cho những
người vì tàn tật cần được chăm sóc
đặc biệt, những trường sư phạm
đào luyện giáo chức vừa về việc dạy
giáo lý, vừa về những hình thức giáo dục khác.
Thánh Công
Ðồng ân cần nhắc nhủ các Chủ Chăn của
Giáo Hội cũng như mọi Kitô hữu đừng
quản ngại hy sinh giúp đỡ các trường công
giáo chu toàn bổn phận ngày càng hoàn hảo hơn, và
nhất là quan tâm đến nhu cầu của những
người thiếu thốn phương tiện vật
chất, thiếu tình thương, thiếu sự nâng
đỡ của gia đình hoặc còn xa lạ với
đức tin.
10. Phân khoa và đại học Công Giáo. Giáo Hội cũng đặc biệt quan tâm
đến những trường Cao Ðẳng, nhất là
những viện Ðại Học và Phân Khoa 44*. Hơn nữa, đối với các
trường hợp thuộc quyền, Giáo Hội
ước mong tổ chức sao cho mỗi môn
được nghiên cứu tường tận theo
những nguyên tắc riêng, phương pháp riêng và quyền
tự do riêng của việc nghiên cứu khoa học,
để hiểu các môn học ấy ngày càng sâu xa hơn,
Và để một khi đã tìm hiểu thấu đáo
những vần đề mới mẻ, cũng như các
công cuộc tìm tòi của thời đại đang
tiến bộ, đồng thời theo đường
lối của các vị Tiến Sĩ Giáo Hội, nhất
là thánh Tôma thành Aquina, người ta sẽ nhận thức
sâu xa hơn đức tin và lý trí cùng quy hướng về
một mục đích duy nhất 31. Như thế, tinh thần Kitô giáo
sẽ hiện diện một cách công khai, vững mạnh
và phổ quát trong mọi nỗ lực đưa
đến một nền văn hóa sâu xa hơn, và các
học viên xuất thân từ những trường ấy
sẽ là những người có kiến thức vững
chắc thực sự, sẵn sàng đảm nhận
mọi trọng trách trong xã hội và trở nên nhân
chứng đức tin nơi trần thế 32.
Tại các
Ðại Học Công Giáo không có Phân Khoa Thần Học, 45* nên thành lập một Viện hay
một giảng đường thần học 46* để các sinh viên giáo dân cũng có
thể lĩnh hội những bài giảng huấn thích
hợp. Các khoa học sở dĩ tiến bộ
được là nhờ ở các cuộc khảo cứu
chuyên biệt có giá trị khoa học cao độ, nên các
Ðại Học và các Phân Khoa Công Giáo phải hết sức nâng
đỡ các tổ chức nào có mục đích chính
yếu là xúc tiến công cuộc khảo cứu khoa
học.
Thánh Công
Ðồng tha thiết khuyên nhủ các Viện Ðại Học
và các Phân Khoa Công Giáo đã được phân phối thích
đáng tại các phần đất khác nhau trên hoàn
cầu, phải phát triển làm sao để nổi
tiếng không phải nhờ số lượng mà nhờ
ở phẩm chất của giáo huấn. Phải dễ
dãi trong việc thu nhận những sinh viên có nhiều
triển vọng dù họ thuộc thành phần kém may
mắn, nhất là những người đến từ
các quốc gia mới thành lập.
Vì
tương lai của xã hội và của chính Giáo Hội
liên kết mật thiết với sự tiến bộ
của các thanh niên đang hấp thụ nền học
vấn cao đẳng 33, nên các Vị Chủ Chăn trong Giáo
Hội không những chỉ săn sóc đến
đời sống thiêng liêng, mà còn phải chăm lo
việc giáo dục tinh thần cho hết mọi sinh viên con
cái mình học tại các Ðại Học Công Giáo. Vì thế,
sau khi tùy hoàn cảnh tham khảo ý kiến các Giám Mục,
các ngài hãy lo liệu thiết lập tại các Viện
Ðại Học không Công Giáo những cư xá và trung tâm
Ðại Học Công Giáo. Ở đó, những linh mục, tu
sĩ và giáo dân được tuyển chọn và huấn
luyện kỹ càng, sẽ thường xuyên giúp đỡ
thanh niên đại học về phương diện tinh
thần và trí tuệ. Các ngài cũng nên đặc biệt
quan tâm và khuyến khích những thanh niên ưu tú trong các
Ðại Học Công Giáo cũng như các Ðại Học khác
để họ bước vào nghề giáo nếu thấy
họ có khả năng giảng huấn và nghiên cứu.
11. Phân khoa dạy các môn học thánh. Giáo Hội đặt kỳ vọng vào hoạt
động của các phân khoa dạy các môn học thánh 34. Vì thế, Giáo Hội ủy thác cho các
phân khoa ấy một nhiệm vụ vô cùng quan trọng là
chuẩn bị sinh viên của mình, không những để
họ tiến tới chức linh mục, nhưng nhất
là để họ hoặc giảng dạy tại các
ghế giáo sư cao đẳng của Giáo Hội, hoặc
cải tiến các môn học nhờ việc nghiên cứu cá
nhân hay để họ nhận lãnh những phần
việc khó khăn hơn trong nhiệm vụ tông đồ
cho giới trí thức. Các phân khoa ấy cũng có nhiệm
vụ khảo cứu sâu xa mọi ngành khác nhau của các
môn học thánh để mỗi ngày một thấu
hiểu tường tận hơn Mạc Khải Thánh,
mở rộng hơn di sản khôn ngoan Kitô giáo do các bậc
tiền nhân truyền lại, phát động cuộc
đối thoại với các anh em ly khai, với các
người ngoài Kitô giáo, và sau hết để giải
đáp những vấn đề do sự tiến bộ
của các học thuyết đặt ra 35.
Vì thế,
các Phân Khoa Giáo Hội phải lo tu chỉnh những
điều lệ cho hợp thời để phát
triển mạnh mẽ các khoa học thánh và những khoa
học liên hệ. Phải sử dụng những
phương pháp và phương tiện tân tiến
để hưởng các sinh viên đến những
cuộc khảo cứu sâu rộng hơn.
12. Hợp tác trong lãnh vực giáo dục. Sự cộng tác 47* ngày một khẩn thiết và đang
được củng cố trong phạm vi giáo phận,
quốc gia và quốc tế cũng rất cần thiết
trong lãnh vực học đường. Vì thế, bằng
mọi cách, phải lo liệu thế nào việc hợp tác
giữa các trường công giáo với nhau được
thuận lợi, đồng thời vì ích lợi chung
của cộng đồng nhân loại đòi hỏi,
phải đẩy mạnh việc hợp tác giữa chính
các trường công giáo với các trường khác 36.
Càng liên
kết và cộng tác chặt chẽ với nhau, nhất là
ở bậc Ðại Học, càng thu lượm
được nhiều kết quả. Vì thế trong
mỗi Ðại Học, các Phân Khoa phải hợp tác với
nhau, tùy theo mục tiêu cho phép. Chính các Ðại Học cũng
phải liên kết hỗ tương hành động,
đồng thời cổ võ những cuộc họp
mặt quốc tế, phân phối với nhau việc nghiên
cứu khoa học, thông báo cho nhau những phát minh, trao
đổi với nhau các giáo sư trong một thời gian
nào đó và phát huy những gì mang lại việc hỗ trợ
lớn lao hơn.
Kết luận. Thánh Công
Ðồng tha thiết khuyên nhủ các thanh niên hãy ý thức
nhiệm vụ cao cả của việc giáo dục, hãy
sẵn sàng nhận lãnh nhiệm vụ này với tâm hồn
quảng đại, nhất là tại những miền nào
việc giáo dục thanh niên đang bị lâm nguy vì thiếu
thầy dạy.
Thánh Công
Ðồng tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với các
linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, đã tự
hiến theo tinh thần Phúc Âm dấn thân vào công cuộc
trọng đại này là giáo dục trong các trường
thuộc mọi cấp và mọi ngành. Ðồng thời
khuyến khích họ hãy quảng đại và kiên tâm trong
bổn phận đã lãnh nhận, nỗ lực vươn
lên trong việc đào luyện học sinh thấm nhuần
tinh thần của Chúa Kitô, trong khoa sư phạm và trong
việc trau dồi kiến thức, để họ không
những đẩy mạnh cuộc canh tân bên trong Giáo
Hội mà còn duy trì và phát huy thêm sự hiện diện
hữu ích của Giáo Hội trong thế giới ngày nay
nhất là trong giới trí thức.
Tất
cả và từng điều đã được ban
bố trong Tuyên Ngôn này đều được các
Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng
quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị
Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê
chuẩn, chế định và quyết nghị, và
những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết
nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma,
tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 28 tháng 10 năm 1965.
Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội
Công Giáo.
Tiếp
theo là chữ ký của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
1 Trong số nhiều văn kiện giải thích
tầm quan trọng của việc giáo dục,
trước hết xem: - Benedictô XV, Tông thư Communes
Litteras, 10-4-1919: AAS 11 (1919), trg 172. - Piô XI, Tđ Divini Illius
Magistri, 31-12-1929: AAS 22 (1930), trg 49-86. - Piô XII, Huấn từ
cho thanh niên A.C.I. 20-4-1946; Discorsi e Radiomessaggi VIII, trg 53-57. -
Huấn từ cho các người cha gia đình nước
Pháp, 18-9-1951: Discorsi e Radiomessaggi XIII, tr 241-245. - Gioan XXIII,
sứ điệp kỷ niệm 30 năm ban hành Tđ
Divini Illius Magistri, 30-12-1959: AAS 52 (1960), trg 57-59. - Phaolô VI
Huấn từ cho các hội viên F.I.D.A.E. (Federazione Istituti
Dipendenti dall'Autorità Ecclesiastica), 30-12-1963: Encicliche e Discorsi di
S.S. Paolo VI, I, Roma 1964, trg 601-603. Cũng nên xem Acta et Documenta
Concilio Oecumenico Vaticano II apparando, loại I, Antepraeparatoria, 1.
III, trg 363-364, 370-371, 373-374.
1* Kiểu nói mới diễn tả nghĩa vụ
phải luôn giúp con người sống hợp thời vì
họ có trách nhiệm sống và làm việc trong một
thế giới luôn tiến bộ nhanh chóng.
2* Dễ dàng hơn vì các phương tiện phong phú,
mới mẻ và hữu hiệu hơn - khẩn cấp
hơn - vì nếu không vậy thì sự sai biệt liên
lỉ giữa người không được chuẩn
bị, không được giáo dục và nền văn minh
luôn tiến bộ sẽ biến con người thành
nạn nhân của văn minh tiến bộ đó.
2 Xem Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra, 15-5-1961:AAS 53 (1961),
trg 413, 415-417, 424. - Tđ Pacem in Terris, 11-4-1963: AAS 55 (1963), trg
278t.
3* Các nguyên tắc về vấn đề này đã
được Cơ Quan Giáo Dục, Khoa Học và Văn
Hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công bố ngày 20-11-1958
với 78 phiếu thuận, không có phiếu nào chống.
3 Xem
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Déclaration des droits de
l'homme) do Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc
chấp thuận ngày 10-12-1948 và xem Déclaration des droits de
l'enfant, 20-11-1959; Protocole additionnel à la convention de sauvegarde des
droits de l'homme et des libertés fondamentales, Paris, 20-3-1952; về
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, xem Gioan XXIII, Tđ Pacem
in Terris, 11-4-1963: AAS 55 (1963), trg 295t.
4* Ðâu đâu người ta cũng thấy như
thế và đó cũng là một điều đáng
mừng. Tuy nhiên Cơ Quan Giáo Dục, Khoa Học và Văn
Hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) lại nhấm
mạnh tới phẩm hơn là tới lượng. Trong
thực tế cơ quan này cho rằng phẩm chất
rất thiếu sót, rõ ràng nhất là sự yếu kém
của hiệu năng nội tại (sự giảm
bớt về bài học) và hiệu năng ngoại tại
(phẩm chất của việc nhận định sự
thực). Những nguyên nhân chính yếu là do trình độ
thiếu sót của các giáo sư và do chương trình không
thích hợp. - Tuyên Ngôn có lý khi nhấn mạnh tới
mặt trong của sự phát triển đó.
5* Sự chắc chắn của những nguyên tắc
tâm lý cho phép ta mạnh dạn áp dụng những kinh
nghiệm đó và hơn nữa, sự thành công của
những cuộc cải cách còn khuyến khích ta làm như
vậy. Không cần phải nhắc lại ở đây
tất cả những kinh nghiệm đó. Tuy nhiên cũng
xin nhắc đến những gì mà khoa sư phạm đã
dùng tới như những lý thuyết về ích lợi,
những nguyên tắc về phối hợp luân lý và về
việc tập trung tinh thần, việc tự hoạt
động, việc cá tính hóa, việc hoạt động
tập thể và về việc tự chủ...
6* Tất cả đối tượng lo âu của
Giáo Hội là con người toàn diện, xác và hồn.
Hiểu khác đi chính là phản bội lại tư
tưởng và sứ mạng của Giáo Hội.
4 Xem
Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 402. - CÐ
Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 17: AAS
57 (1965), trg 21.
7* Người ta có thể định nghĩa danh
từ này rất nhiều cách, nhưng để gọi
được là xác thực, các định nghĩa đó
phải có những đặc tính chung sau đây:
a. Giáo
dục chỉ có thể có nơi loài người.
b. Nó là
hoạt động của một hữu thể
đối với một hữu thể khác.
c. Hoạt
động này được hướng tới một
mục đích.
d. Mục
đích đó là đạt được một số
tính chất đại cương giúp con người
dẽ dàng đạt được lợi ích của mình.
5 Piô XII, Sứ Ðiệp truyền thanh, 24-12-1942: AAS 35
(1943), trg 12,19. Gioan XXIII, Tđ Pacem in Terris, 11-4-1963: AAS 55
(1963), trg 259t. Và xem những Tuyên Ngôn Nhân Quyền ở ghi
chú 3.
6 Xem
Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, 31-12-1929: AAS 22 (1930), trg 50t.
8* Theo Kant, giáo dục phải phát triển nơi cá nhân
tất cả sự toàn hảo mà họ có thể có.
9* Ðốivới Henri Joly, giáo dục có mục đích
giúp con ngùi hoàn toàn làm chủ và sử dụng đúng
mức tất cả mọi khả năng của mình.
10* Hình như những khác biệt về hai phái có tính
cách về lượng hơn là về phẩm. Nói theo sinh
lý học, trước thời kỳ dậy thì, con trai và
con gái có một hình thái khá ngang nhau, Nhưng sau đó thì hoàn
toàn khác biệt, nhất là về những hình thái cân
đối (chiều cao và sức nặng, kích thước,
xương chậu và vai...) (theo Heymans và Weinbey). Trên lãnh
vực tâm lý, những sự khác vẫn còn có tính cách về
lượng và về sự tương phản giữa
đàn ông và đàn bà chỉ thu hẹp thành sự khác
biệt về sự phát triển theo lượng. Nhưng
nói rằng không có những khác biệt quan trọng giữa
hai phái không có nghĩa là việc giáo dục và sự
đối xử trong xã hội phải hoàn toàn giống
nhau đối với cả hai phái, vì vẫn còn có một
kiểu mẫu đàn ông và một kiểu mẫu đàn bà
rất dễ phân tích.
11* Thuyết xã hội học của Durkheim và Dewey
muốn rằng giáo dục sửa soạn cho đứa bé
thích ứng với xã hội chính trị và môi trường
riêng mà sau nầy nó sẽ sống. Giáo dục là hoạt
động của cả một cộng đoàn
đối với một thế hệ để bảo
đảm cho thế hệ đó tồn tại và tăng
trưởng không ngừng.
12* Aldous Huxley cho rằng phải giáo hóa con người
để có tự do, công bằng và hòa bình.
13* Ðây là bản đúc kết tuyệt hảo của
một bản tóm lược về những giáo thuyết
khác nhau đối với vấn đề giáo dục.
14* Biết bao tiến triển đáng chú ý từ
đầu thế kỷ này trên ba lãnh vực tâm lý,
phương pháp kỹ thuật giảng dạy.
15* Giả thuyết là đã tự thắng mình, đã
tự thoát khỏi lệ thuộc bản thân.
16* Trong xã hội văn minh của chúng ta, người
ta đã luôn luôn yên lặng khi đề cập đến
vấn đề này. Nhưng ngày nay người ta bó
buộc phải nhận rằng phái tính là một hiện
tượng trọng yếu trong đời sống cá nhân
và các dân tộc. Nhận biết sự cần thiết của
việc giáo dục phái tính chính là nhận thấy những
biểu hiện liên lỉ của nó (sự bành
trướng quá lý tửng, khuynh hứng tìm kiếm nam tính
hay nữ tính) và người ta có thể hướng
dẫn những biểu hiện đó theo một chiều
hứng thích hợp với khung cảnh luân lý của các xã
hội văn minh.
17* Quan niệm tuyệt hảo về con người,
một sinh vật có trách nhiệm phải sống với
và cho kẻ khác hầu sống trọn vẹn đời
sống của mình.
18* Trong vấn đề luân lý, chỉ có sự tự
ý chấp nhận là đáng kể vì nó giả thiết
đã nhìn thấy, yêu thích và tự do chọn lựa sự
thiện.
19* Vì sự thành công toàn diện của con người
tùy thuộc ở việc kính trọng quyền ấy, và vì
quyền này nâng cao giá trị những quyền cao quý và chính
yếu khác của con người, một sinh vật thông
minh và tự do.
7 Xem
Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 441t.
20*
Với tư cách là con người, các Kitô hữu có
quyền hưởng một nền giáo dục đầy
đủ và thích hợp. Với tư cách là người
đã được rửa tội, họ có quyền
hưởng một nền giáo dục Kitô giáo giúp họ xứng
đáng đón nhận sự cung hiến tối cao cho nhân
phẩm con người.
8 Xem
Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 83.
21* Là
một tập hợp các lễ nghi để chu toàn
việc kính thờ Thiên Chúa qua trung gian Chúa Kitô Cứu
Thế.
22* Chính
là Giáo Hội kết hiệp làm một với Chúa Kitô.
23*
Ðịnh nghĩa vắn tắt và tuyệt diệu về
những bổn phận của người Kitô hữu
đối với những giá trị tự nhiên trong xã hội
loài người.
9 Xem CÐ
Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 36: AAS
57 (1965), trg 41t.
10 Xem CÐ
Vat. II, Sắc lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ
của các Giám Mục trong Giáo Hội, số 12-14.
24* Tuyên
ngôn nói về cha mẹ trước khi nói tới gia đình
vì chính do những người thuộc gia đình mà Tuyên
Ngôn chấp nhận quyền lợi và bổn phận là
"những nhà giáo dục đầu tiên và chính
thức". - Ðiều này khác với Thông Ðiệp Divini
Illius Magistri nói nhiều về gia đình.
11 Xem
Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 59t. Tđ Mit Brenender
Sorge, 14-3-1937: AAS 29 (1937), trg 164t. - Piô XII, Huấn từ cho
đại hội toàn quốc lần đầu tiên
của Hiệp Hội Công Giáo các giáo chức Ý (A.I.M.C.),
18-9-1946: Discorsi e radiomessaggi VIII, trg 218.
25*
Thuở sơ khai gia đình cung cấp mọi sự cho con
người. Nhưng về sau tín ngưỡng
được dành cho tôn giáo, binh bị và tài phán
được dành cho quốc gia, kinh tế
được dành cho kỹ nghệ, gia đình chỉ còn
lại có chức vụ giáo dục.
Nhưng chính ra chức vụ này lại
bị hạn hẹp tùy thuộc vào khả năng giáo
huấn của gia đình.
Vả lại, vì chức vụ này có tính
cách bảo tồn hơn là biến đổi, hay vì chính nó
đã quá lỗi thời, nên không đáp ứng
được nhu cầu của cả thế giới
hiện đại.
Vì phạm vi kinh nghiệm quá nhỏ
hẹp đầy những mãnh lực trái ngược
đối chọi nhau, và người thanh niên
thường chưa được sửa soạn lại
giữ nhiệm vụ quá quan trọng, nên gia đình không
duy trì được địa vị chính yếu như
những thời xa xưa. Trẻ con không những chỉ
thích nghi với sự vật, nhưng cả với
những sản phẩm kỹ nghệ và những sinh
vật chung quanh. Nó phản ứng lại bằng những
cảm xúc sau này sẽ thành nhân cách của nó. Thật ra,
nền giáo dục gia đình chính nó không phải là tất
cả. Ðúng hơn, nó cộng tác vào một công cuộc
vượt quá tầm s?#7911;a nó.
26*
hầu như chỉ có gia đình Kitô giáo còn giữ
được học thuyết chân chính về luân lý, xã
hội, chính trị và tôn giáo. Các học thuyết đó
thấm nhuần cuộc sống và gieo rắc ảnh
hưởng của gia đình, giống như những
thời sơ khai khi tôn giáo còn đi liền với thành
thị và quốc gia, và nền giáo dục tôn giáo song song
với nền giáo dục chính trị và gia đình.
12 Xem CÐ
Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 11 và
35: AAS 57 (1965), trg 16 và 40t.
27*
Trẻ con không được thuộc về gia đình
nữa, nhưng thuộc về xã hội hoặc quốc
gia. Ðó là một kỳ vọng thái quá trái ngược
hẳn với những đòi hỏi thiết định
của chính lương tâm.
Nếu quốc gia có giữ quyền
kiểm soát thì đây là lý do: vì là cơ quan pháp luật
tối cao, quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm
để mọi người được huấn
luyện về trí thức, nghề nghiệp, luân lý và thiêng
liêng cần thiết cho cuộc sống của họ.
13 Xem
Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 63t. - Piô XII, Sứ
điệp truyền thanh, 1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 200;
Huấn từ cho đại hội toàn quốc lần
đầu tiên của Hiệp Hội Công Giáo các giáo
chức Ý, 8-9-1946: Discorsi e Radiomessaggi VIII, trg 218. - Về
nguyên tắc đồng trách nhiệm, xem Gioan XXIII, Tđ
Pacem in Terris, 11-4-1963: AAS 55 (1963), trg 294.
28*
Tất cả đoạn này đều lý luận về
sứ mệnh giáo dục của Giáo Hội bắt
nguồn từ bản tính xã hội nhân bản của mình
và từ những quyền lợi của con người mà
Giáo Hội có bổn phận phải thăng tiến. Giáo
Hội lãnh trách nhiệm thiêng liêng đối với các con
cái mình nơi Chúa Kitô.
29* Giáo
Hội cung cấp một phương tiện hết
sức tốt đẹp để giáo dục con
người. Giáo Hội xét tới con người toàn
diện thuộc mọi nghề nghiệp và mọi lứa
tuổi. Hơn nữa, Giáo Hội còn theo dõi con
người qua các giai đoạn phát triển và cống
hiến cho mỗi lứa tuổi những phương
thế giáo dục thích hợp. Ðối với trẻ thì có
các tập quán và thần thoại. - Ðối với những
thanh niên thì có những bài học và sự nâng đỡ
tuyệt hảo về luân lý. - Ðối với những
người trưởng thành thì có một thuyết mang
lại những giải đáp cho mọi vấn đề
của cuộc sống.
14 Xem
Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 53t, 56t. - Tđ Non abbiamo
bisogno, 29-6-1931: AAS 23 (1931), trg 311t, - Piô XII, Thư của
Quốc Vụ Khanh gởi cho tuần lễ xã hội Ý
lần thứ XXVIII, 20-9-1955: L'Osservatore Romano, 29-9-1955.
15 Giáo
Hội ca tựng các nhà cầm quyền dân sự
địa phương, quốc gia và quốc tế ý
thức những nhu cầu khẩn thiết của
thời đại hiện nay, hết sức cố
gắng để mọi dân tộc có thể tham dự vào
việc giáo dục đầy đủ hơn và vào
nền văn hóa của nhân loại. Xem Phaolô VI: Diễn
văn trước Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp
Quốc, 4-10-1965: AAS 57 (1965), trg 877-885.
16 Xem
Piô XI, Tự sắc Orbem catholicum, 29-6-1923: AAS 15 (1923), trg
327-329; Sắc lệnh Provido Sane, 12-1-1935: AAS 27 (1935), trg
145-152. - CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Nhiệm Vụ
mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội, số
13 và 14.
17 Xem CÐ
Vat. II, Hiến chế về phụng vụ Thánh, số 14:
AAS 56 (1964), trg 104.
30* Là
những phương thế mà nền văn minh hiện
đại sử dụng trong lãnh vực giáo huấn và lãnh
vực truyền thông xã hội.
18 Xem CÐ
vat. II Sắc lệnh về các Phương Tiện
Truyền Thông Xã Hội, số 13 và 14: AAS 56 (1964), trg 149t.
31*
Hiện nay học đường đã được xác
định rõ trong vai trò tinh thần và xã hội.
Thường thường người ta nói tới vai trò
thứ nhất mà quên không nhấn mạnh đến vai trò
thứ hai. Theo định nghĩa, nền giáo dục
đích thực phải là giáo dục đại chúng,
nghĩa là chuẩn bị tinh thần cho con người
tham gia vào việc điều hành xã hội bằng sự
chiếm hữu được các biểu tượng
(biểu tượng về khoa học, kỹ thuật, lịch
sử, chính trị, kinh tế, nghệ thuật, tôn giáo,
tắt một lời tất cả di sản văn hóa
của nhân loại). Bí nhiệm của học đừng
chính là việc khởi sự tìm về những biểu
tượng bao bọc tất cả những tình cảm
cao quý của nhân loại, để nhờ đó các đòi
hỏi của tinh thần thật sự đực thành
hình.
19 Xem
Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 76. - Piô XII, Huấn
từ cho Hiệp Hội Giáo Chức Công Giáo Bavaria,
31-12-1956: Discorsi e Radiomessaggi XVIII, trg 746.
32* Tuyên
Ngôn không đi ngược lại nguyên tắc ưu tiên
về quyền hạn của quốc gia trong việc giáo
dục. Tuyên Ngôn chỉ đòi hỏi sự công bằng
phân phối theo quyền của con người và của
người công dân.
20 Xem CÐ
Giáo Tỉnh Cincinnati III, năm 1961: Collectio Lacensis III,
cột 1240, c/d. - Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 60,
63t.
33* Nguyên
tắc giữ độc quyền các học
đường là: quốc gia là cơ quan của ý chỉ
tập thể và nguyên khởi của nhân loại, quốc
gia có sứ mệnh đảm bảo vận mệnh ghi
sẵn trong hiến pháp dân tộc. Mục đích của
quốc gia là gây được sự thuần nhất rõ
rệt trong các tâm thức, tình cảm, ý kiến và khát
vọng của toàn tập thể. Do đó, giáo dục có
mục đích tạo nên một thứ quần chúng trong đó
cá nhân bị đồng hóa và bị tiêu diệt. Ðó là
sự chối bỏ các quyền lợi của con
người.
34*
Ðể các sáng kiến muốn thí nghiệm những
điều ham thích được tự do phát triển, và
nhờ những kinh nghiệm đó, tất cả tập
thể thêm phong phú.
21 Xem
Piô XI, Tđ. Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 63. - Tđ. Non abbiamo
bisogno, 29-6-1963: AAS 91931), trg 305. - Piô XII, Thư của
Quốc vụ khanh gởi cho tuần lễ xã hội
lần thứ XVIII tại Ý, 20-9-1955: L'Osservatore Romano,
29-9-1955. - Phaolô VI, Huấn từ cho Hiệp Hội thợ
thuyền Kitô giáo Ý (A.C.L.I.), 6-10-1963: Encicliche e Discorsi di Paolo
VI, I, Roma 1964, trg 230.
22 Xem
Gioan XXIII, Sứ điệp kỷ niệm 30 năm ban hành
Tđ. Divini Illius Magistri, 30-12-1959: AAS 52 (1960), trg 57.
35* Chúng
ta hãy so sánh đoạn này với khoản 1374 trong giáo
luật: "Trừ những trường hợp vi
phạm đã được biện minh, các thanh thiếu
niên công giáo không được theo học những
trường không công giáo, trung lập, hoặc không phân
biệt tôn giáo". Tuyên Ngôn này của Công Ðồng đã
tiến bộ biết bao khi nhìn nhận sự hiện
diện của các trẻ em công giáo nơi những học
đường không công giáo như là một điều
tự nhiên, vì vấn đề là cha mẹ các trẻ em đó
phải giúp đỡ vào để có một nền giáo
dục Kitô giáo. Vì thế "sự va chạm giữa Giáo
Hội và thế giới ngoài Kitô giáo ngày nay không còn
độc hại như 50 năm trước đây
nữa. Riêng phần Giáo Hội, Giáo Hội đã chú ý
nhiều hơn tới những nhu cầu của những
người chưa biết Phúc Âm. Công Ðồng đã cố
ý đặt mình vào đúng trào lưu các đòi hỏi
khẩn thiết của thế giới ngày nay" (Edmond
Vandermeersch SJ.).
23 Giáo
Hội rất quý trọng hoạt động tông
đồ do các giáo sư và học sinh công giáo có thể
thực hiện được trong lãnh vực học
đường.
24 Xem
Piô XII, Huấn từ cho Hiệp Hội Công Giáo Bavaria,
31-12-1956: Discorsi e Radiomessaggi XVIII, trg 745t.
36* Trường
học công giáo không cần phải thành công nhiều về
kinh tài hay số lượng, nhưng cần đầy
đủ dụng cụ nhất, hợp thời nhất
xét về các phương pháp giáo dục và giáo huấn.
37* Công
giáo tiến hành như men trong bột, phải len lỏi vào
các trường học này. Ngay cả ở Việt Nam
cũng thế. Thời xưa, chỉ một "nhóm
nhỏ" tín hữu mà đã làm sống động
cả một khối đông đảo chưa nhận
biết Thiên Chúa và đã chinh phục họ trở về
với Ngài.
25 Xem CÐ
Giáo tỉnh Westminster I, năm 1852: Collestio Lacensis III, cột
1334, 1/b. - Piô XI, Tđ Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 77t. - Piô XII,
Huấn từ cho Hiệp Hội Giáo Chức Công Giáo Bavaria
31-12-1956: Discorsi e Radiomessaggi XVIII, trg 746. - Phaolô VI, Huấn
từ cho các Hội viên F.I.D.A.E. (Federazione Istituti Dipendenti
dall'Autorità Ecclesiastica), 30-12-1963: Encicliche e Discorsi di Paolo VI, I,
Roma 1964, trg 602t.
38* Là
nhịp cầu giao kết giữa Giáo Hội và xã hội
trần thế, học đường Kitô giáo thể
hiện sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo.
26 Xem
đặc biệt là các tài liệu trong ghi chú 1; hơn
nữa, quyền lợi này của Giáo Hội đã
được nhiều Công Ðồng giáo tỉnh, cũng
như những tuyên ngôn mới nhất được
nhiều Hội Ðồng Giám Mục công bố.
39*
Những chú giải ở trên đã minh chứng đầy
đủ lời quả quyết này.
27 Xem
Piô XI, Tđ. Divini Illius Magistri, n.v.t. trg 80t. - Piô XII, Huấn
từ cho Hiệp Hội Giáo Chức Công Giáo trung học Ý
(U.C.I.I.M.), 5-1-1944: Discorsi e Radiomessaggi XV, trg 551-556. - Gioan
XXIII, Huấn từ cho đại hội Hiệp Hội
Công Giáo các Giáo Chứa Ý (A.I.M.C.) lần VI, ngày 5-9-1959: Discorsi
, Messaggi, Colloqui, I, Roma 1960, trg 427-431.
40*
Việc chuẩn bị các nhà giáo dục chính là nền
tảng cho nền văn hóa nhân bản. Sự chuẩn
bị đó khởi sự từ cấp sơ học,
nhưng nhất là ở bậc trung học với
những phát minh khoa học, luân lý và thẩm mỹ bảo
đảm cho họ một kiến thức phổ quát giúp
vào việc giải phóng tâm trí. Sau đó việc huấn
luyện về tâm lý sư phạm sẽ giúp họ
nhậy cảm trước những vấn đề mà
họ sẽ gặp phải trong sứ mạng dẫn
dắt thanh thiếu niên. Sau cùng, sự đào tạo luân lý
và tôn giáo sẽ giúp họ thấy rõ lý tưởng siêu nhiên
của con người mà những tâm hồn
được họ dìu dắt phải theo đó mà
sống.
41* Nam
tính và nữ tính khác nhau và bổ túc cho nhau. Nghĩa là chúng
đòi hỏi phải có những hoàn cảnh riêng biệt
để sinh trưởng và phát triển, nhưng
đồng thời chúng cũng ảnh hưởng lẫn
nhau một cách tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu muốn
xét tới một nền giáo dục hỗn hợp cho
cả hai phái, ta phải để ý tới tình trạng
đại cương về phong tục cũng như
phải lưu ý tới tâm tình của mỗi dân tộc.
42* Ðây là
đặc điểm của những phương pháp
năng động hiện đại.
28 Xem
Piô XII, Huấn từ Hiệp Hội Giáo Chức Công Giáo
trung học Ý (U.C.I.I.M.), 5-1-1954, n.v.t. trg 555.
29 Xem
Phaolô VI, Huấn từ cho Cơ Quan Quốc Tế Giáo
Dục Công Giáo (O.I.E.C.), 25-2-1964: Encicliche e Discorsi di Paolo VI,
II, Roma 1964, trg 232.
30 Xem
Phaolô VI, Huấn từ cho Hiệp Hội Công Giáo các Thợ
Thuyền Ý (A.C.I.I.), 6-10-1963: Encicliche e Discorsi di Paolo VI, I,
Roma 1964, trg 229.
43*
Lập ra nhiều loại trường là để khai
thác tối đa những khả năng cá nhân và nhằm
tới sự điều hòa các tiềm năng của con
người trong quốc gia. Ðây là một trong những
đặc tính của nền văn minh hiện
đại, không muốn để một tài nguyên nào
của quốc gia bị uổng phí.
44* Ðây là
một đoạn văn tuyệt diệu xác định
vai trò giáo huấn cao đẳng của công giáo.
31 Xem
Phaolô VI, Huấn từ cho Ðại Hội Quốc Tế
lần thứ VI về thuyết Tôma, 10-9-1965: AAS 57 (1965),
trg 788-792.
32 Xem
Piô XII, Huấn từ cho giáo chức và sinh viên các
trường cao đẳng Công Giáo Pháp, 21-9-1950: Discorsie
Radiomessaggi XII, trg 219-221; - Thư gởi đại hội
"Pax Romana" lần thứ XXII, 12-8-1952: Discorsi e
Radiomessaggi XIV, trg 567-569. - Gioan XXIII, Huấn từ cho Liên
Viện Ðại Học Công Giáo, 1-4-1959: Discorsi, Messaggi,
Colloqui, I, Roma 1960, trg 226-229; - Phaolô VI, Huấn từ cho
hội đồng giáo sư Ðại Học Công Giáo Milan,
5-4-1964: Encicliche e Discorsi di Paolo VI, Roma 1964, trg 438-443.
45*
Một trong những mục đích của các phân khoa
thần học là lưu truyền mãi mãi và cổ võ tư
tưởng công giáo trong thế giới bằng cách
hướng dẫn luồng suy tư Kitô giáo.
46* Ðó là
điều kiện tối thiểu, vì nếu không
được như vậy, các đại học Công Giáo
cũng chỉ giống như những đại học
thông thường vì chỉ lo lắng tới những
việc trần gian.
33 Xem
Piô XII, Huấn từ cho Hội Ðồng Giáo Sư và các sinh
viên Ðại Học Roma, 15-6-1952: Discorsi e Radiomessaggi XIV, trg
208: "Hướng đi của xã hội ngày mai
trước hết căn cứ trên não trạng và tâm
thức của các Ðại Học hiện nay".
34 Xem
Piô XI, Tông hiến Deus Scientiarum Dominus, 24-5-1931: AAS 23 (1931), trg
245-247.
35 Xem
Piô XII, Tđ Humani Generis, 12-8-1950: AAS (1950), trg 568t, 578. - Phaolô
VI, Tđ Ecclesiam suam, phần III, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg
637-659. - CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Hiệp Nhất: AAS
57, trg 90-107.
47*
Sự phối trí học đường ngày nay
được cụ thể hóa đặc biệt chính là
nhờ Cơ Quan Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên
Hiệp Quốc (UNESCO). Tất cả các nền văn minh
và các lý thuyết đều gặp gỡ nhau tại
đó, qua việc cộng tác quốc tế rất phong phú
và dễ dàng; người ta thi đua nhau trong mọi lãnh
vực: vật chất và chính trị, luân lý và tinh thần
nhằm nâng cao mọi chủng tộc.
36 Xem Gioan XXIII, Tđ Pacem in Terris, 11-4-1963: AAS 55 (1963),
trg 248 và các đoạn khác.
|