Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền
Trần Ðông Phong
Vào khoảng đầu thập niên 1970,
nhân một dịp ra thăm Huế, tôi được
mời đến tham dự một buổi lễ
điạ phương tổ chức tại Toà Ðại
Biểu Chính Phủ bên bờ sông Hương. Sau buổi
lễ, trong phần tiếp tân, ông Tỉnh Trưởng
dẫn tôi đến trước mặt Ðức Cha
Nguyễn Kim Ðiền, Giám Mục Tổng Giáo Phận
Huế và giới thiệu tôi với Ngài. Trước
sự ngạc nhiên của ông Tỉnh Trưởng, Ðức
Tổng Giám Mục vồn vã nắm chặt lấy tay tôi
và nói:
- Chào anh giáo sư. Ðã hơn mười
năm rồi mới được gặp lại anh!
Rồi ông quay sang ông Tỉnh Trưởng
nói tiếp:
- Tôi quen với ông giáo sư này từ
trước khi tôi làm Giám mục Ðiạ phận Cần
Thơ, cách đây mười mấy năm rồi. Hôm nay
nhờ ông Tỉnh Trưởng mà tôi lại
được gặp lại một người bạn
cũ, tôi cám ơn ông Tỉnh nhiều lắm!
Ðại Tá Lê Văn Thân cũng cười
nói với Ngài:
-Thưa Ðức Tổng, con quen biết ông
này cũng lâu rồi, bây giờ nhờ Ðức Tổng
mới biết ông ấy ngày xưa làm giáo sư.
Sau một hồi hàn huyên, Ðức Cha
hỏi tôi chừng nào trở về Sài Gòn và sau khi tôi
thưa rằng tôi còn ở lại Huế vài ba hôm nưã
thì Ngài hỏi tôi:
- Ngài mai anh đến thăm tôi nhé! Tôi
muốn gặp riêng anh để hỏi thăm chuyện
cũ hồi ở Cần Thơ. À này, anh nhớ
đến ăn cơm trưa với tôi nghe!
Hồi cuối thập niên 1950, tôi dạy
học tại trường Trung Học Phan Thanh Giản,
một trường công lập tại Tây Ðô. Tiếng là
thủ đô của miền Tây nhưng Cần Thơ
chỉ là một thành phố nhỏ bên dòng sông Hậu Giang,
không có nhiều môn giải trí cho nên bọn chúng tôi, một
nhóm độc thân đa số là luật sư, bác sĩ,
kỹ sư, công chức và giáo sư sau giờ làm việc
thường tụ họp với nhau ở qúan Ngọc
Lợi tại sân quần vợt để đấu láo,
ăn tục nói phét và nói chuyện trên trời dưới
đất...
Chuyện trên trời dưới
đất đối với chúng tôi hồi đó, ngoài
những chuyện liên quan đến văn chương,
lịch sử, kinh tế, xã hội và cả những
chuyện về chính trị bên Tây, bên Tàu, bên Nga, bên Mỹ
và dĩ nhiên là cũng có nhiều chuyện xảy ra ngay
trong đất nước. Ða số chúng tôi đều là
những người trẻ tuổi, chẳng biết
sợ trời sợ đất gì cả cho nên chẳng
cần phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, ưa
thích ai thì khen người đó mà không thích ai thì chỉ
trích thẳng thừng chẳng nể nang gì, mỗi
người một ý kiến và do đó mà những buổi
gặp gỡ hàng ngày đều vô cùng thú vị, nhất là
những lần nói chuyện về tình hình đất
nước.
Có một buổi chiều, Luật sư
Nguyễn Văn Anh đưa một người bạn
của anh đến chơi và giới thiệu với
chúng tôi:
"Ðây là anh Ðiền, ở bên Tây mới
về!"
Khi được hỏi anh đang làm
việc ở đâu thì anh Ðiền chỉ cho biết anh
đang làm cho một chương trình xã hội và lao
động. Anh nói với chúng tôi nưả đùa nửa
thật:
- Sự thật thì tôi làm lao động
nhưng mà nói như vậy thì chắc rằng các anh không
tin đâu!
Dĩ nhiên là chúng tôi không thể nào tin
được chuyện đó vì một người
"ở bên Tây về" thì không thể nào lại đi
làm công việc lao động ở cái xứ Việt Nam
vưà mới dành được độc lập cách
đấy chỉ có mới hơn ba năm. Về sau
nhiều lần chúng tôi hỏi Luật sư Anh về
nghề nghiệp của anh Ðiền thì anh chàng này chỉ
nói quanh nói quất rằng anh Ðiền đang làm công
việc có liên quan đến ngành lao động. Tuy vậy
bọn chúng tôi cũng không thể nào tin rằng một
người từng đi du học Pháp trở về,
nhất làcó vóc dáng và gương mặt trí thức như
anh Ðiền mà lại làm nghề có liên quan đến
giới lao động.
Sau lần đó, anh Ðiền trở lại
tham dự vào những buổi chuyện phiếm của
chúng tôi nhiều lần và được chúng tôi qúy mến
vô cùng.
Anh Ðiền là người khôi ngô, cao ráo,
đẹp trai, mũi cao, đôi mắt hiền hoà với
nụ cười khả ái, tuy ăn mặc giàn dị và
ít nói nhưng không dấu được nét thông minh với
vầng trán rộng. Anh vào trạc trên ba mươi mấy
tuổi, so với chúng tôi thì anh Ðiền lớn hơn chúng
tôi khoảng trên mười mấy tuổi, cho nên chúng tôi
coi anh như là một bậc đàn anh. Nếu chúng tôi
ăn to nói lớn, ăn tục nói phét thì anh Ðiền là
người điềm đạm và ăn nói năng
từ tốn, chững chạc, nếu chúng tôi
thường chỉ trích những người trong chính
quyền thì anh Ðiền thường chỉ ngồi nghe
chứ ít khi phát biểu ý kiến. Có nhiều khi chúng tôi yêu
cầu anh phát biểu ý kiến thì anh viện cớ là
ở ngoại quốc mới về Việt Nam cho nên anh
muốn nghe để học hỏi thêm về chuyện
quê hương đất nước chứ không dám có ý
kiến.
Anh Ðiền thường né tránh như
vậy mỗi khi chúng tôi nói chuyện về chính trị,
tuy nhiên khi thảo luận về những vấn
đề văn hoá và xã hội thì anh cũng đóng góp
nhiều ý kiến, nhất là nói về những kinh
nghiệm của anh ở Pháp và Bắc Phi. Khi nghe anh nói
về Bắc Phi, chúng tôi vô cùng thích thú vì đó là một
vùng đất mà chúng tôi chỉ nghe nói qua sách vở, qua
những bài học về điạ lý đơn sơ,
về những con người mà chúng tôi không hề có
cảm tình vì dưới thời thực dân Pháp, không có
một người Việt Nam nào mà lại không sợ
mấy ông Tây Ma-rốc, Sénégalais "rạch mặt"
v.v. Anh kể cho chúng tôi nghe về sa mạc Sahara mà anh
đã có nhiều dịp du hành vào vùng đó và nhất là nói
về ý nghiã của danh từ "ốc đảo"
(oasis) mà chúng tôi chỉ nghe nói chứ không có một khái
niệm nào.
Tôi còn nhớ anh Ðiền nói với chúng tôi:
"Các anh không thể nào hiểu được
"ốc đảo" nếu mà các anh chưa vào sa
mạc Sahara, chưa chịu đựng qua cái nóng cháy
người của ánh mặt trời và những cơn bão
cát trong sa mạc, chưa chịu đựng qua cái khát kinh
người sau một ngày ngất ngư trong sa mạc... Chỉ có sau những sự
chịu đựng đó thì các anh mới hiểu
được hai chữ "ốc đảo" vì
ốc đảo là tất cả những cái gì con người
mơ ước trong sa mạc, những cái gì trái
ngược với những sự chịu đựng
tột cùng đó của thể xác con người..."
Có lẽ tôi là một trong những ngưòi
lấy làm thích thú nhất về ốc đảo do anh
Ðiền mô tả cho nên khoảng hai mươi năm sau,
trong thời gian làm việc tại Bắc Phi, tôi đã
lần mò đi vào sa mạc Sahara tận vùng cực nam nước
Tunisie và tôi đã biết ơn anh Ðiền, vì nhờ anh tôi
đã lãnh hội được ý nghiã của danh từ
"ốc đảo" mà anh đã nói với chúng tôi
ở Cần Thơ hồi trước.
Hồi cuối thập niên 1950, năm sáu
năm sau Hiệp định Genève, đất nước
đang được sống trong cảnh thanh bình
thịnh trị và về chính trị thì người dân nói
chung và giới trí thức nói riêng đều
được hưởng một cuộc sống tự
do và cởi mở rất nhiều so với thời
đất nước còn bị người Pháp cai
trị. Chúng tôi biết ơn nền Ðệ Nhất
Cộng Hoà, tuy nhiên không vì thế mà nhắm mắt ca
ngợi chế độ vì chế độ này vẫn còn
non trẻ và do đó vẫn còn có rất nhiều sai
lầm cũng như là khuyết điểm. Những
bậc lão thành thì dù có bất mãn họ cũng không nói ra
một cách công khai, tuy nhiên là những người còn
trẻ tuổi, mới ngoài đôi mươi, chúng tôi
chẳng cần giữ gìn, chẳng cần ý tứ dè
dặt gì cả, hễ nghe hay thấy "chuyện
bất bình thì chẳng tha." Chẳng tha đây là
chẳng tha chỉ trích những sai lầm của chế
độ còn có ai nghe hay không thì chuyện đó cũng
chẳng có gì quan trọng. Chúng tôi chỉ trích từ
"ông Cậu" tức là ông Ngô Ðình Cẩn ở
miền Trung, chỉ trích "bà Cố" tức là bà
Cố Vấn Ngô Ðình Nhu ở Sài Gòn và đặc biệt là
chỉ trích "Ðức Cha" tức là Giám Mục Ngô Ðình
Thục, Giám mục điạ phận Vĩnh Long, chỉ
cách Cần Thơ có một dòng sông Hậu Giang.
Ông Cậu thì ở tận ngoài Huế nên
chúng tôi ít nói về ông, tuy nhiên Bà Cố thì ngoài những
chuyện đồn đại ở Sài Gòn liên quan
đến bộ Luật Gia Ðình, mà chúng tôi không chống
đối, bà lại bị chúng tôi chỉ trích về
việc ông Cố Vấn Chính Trị của Tổng
Thống và Bà Ðệ Nhất Phu Nhân lại không cho con cái
đi học trường của chính phủ Việt Nam
Cộng Hoà mà tất cả đều đi học
trường ... Tây, và tệ hơn nưã, ông bà cùng con cái
luôn luôn chỉ nói tiếng ... Tây với nhau trong gia đình.
Riêng về Ðức Cha thì tôi là người
thường chỉ trích ông nhiều nhất vì chuyện
ông chỉ là một vị giám mục mà gần như
hầu hết các nhân vật cao cấp trong chính quyền
hồi đó đều phải về Vĩnh Long
"triều kiến" ông, còn đối với
những cấp chỉ huy hành chánh cũng như là quân
sự ở miền Tây thì khỏi nói, người ta
đồn rằng nếu người nào làm điều gì
ông không hài lòng thì thế nào cũng bị mất chức.
Về chuyện này, tôi còn nhớ trong giới trí thức
hồi đó, người ta đã sưả một câu vè
nổi tiếng lại như sau: "Rồng chầu ngoài
Huế, ngựa tế ... Vĩnh
Long!"
Dạo ấy, ông có làm một cái lễ
kỷ niệm gì đó, hình như là kỷ niệm mấy
chục năm làm giám mục điạ phận Vĩnh Long
chứ chưa phải là lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm
thụ phong giám mục vào năm 1963. Cái việc làm lễ
kỷ niệm đó chỉ là chuyện riêng của ông, gia
đình của ông và giáo dân của ông, vậy mà Bộ Giáo
Dục lại ra lệnh trừ một ngày lương
của tất cả giáo sư, giáo viên và công chức trên
toàn quốc để đóng góp vào ngân qũy làm lễ này.
Sở dĩ tôi bất mãn như vậy không phải là
bị trừ đi một ngày lương mà vì vấn
đề nguyên tắc: Ðức Cha Ngô Ðình Thục tuy là anh
ruột của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nhưng có
ăn nhằm gì đến đám giáo sư và giáo viên trên
toàn quốc mà ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục
Trần Hữu Thế, một đàn em thân tín của
Ðức Cha Thục, lại bắt chúng tôi phải góp
tiền để làm lễ kỷ niệm cho ông Giám
Mục? Ông lấy tư cách gì mà ra lệnh cho ông Bộ
Trưởng Giáo Dục ký chỉ thị trừ một
ngày lương của tất cả nhân viên trong bộ trên
toàn quốc? Chuyện này ông Tổng Thống có biết hay
không và nếu ông Tổng Thống có biết mà không ra
lệnh ngưng việc đó hay khiển trách ông Bộ
Trưởng thì đó là một sự vi phạm nghiêm
trọng đến nguyên tắc "séparation de l'état et de
l'église" (phân quyền giưã nhà nước và giáo hội),
một nguyên tắc mà giới trí thức trẻ chúng tôi
nhiệt thành ủng hộ.
Những lần như vậy thì anh
Ðiền chỉ lẳng lặng ngồi nghe, không hề bày
tỏ một ý kiến gì tuy nhiên khi nhìn vào khuôn mặt anh,
tôi thấy anh không dấu được nét đăm chiêu
trong ánh mắt. Tuy không biết rõ anh làm nghề gì nhưng
chúng tôi, và riêng tôi, bao giờ cũng bày tỏ sự kính
mến đối với con người lớn tuổi
đầy kinh nghiệm, hiểu nhiều biết rộng
nhưng lại vô cùng khiêm tốn này và tất cả chúng
tôi ai ai cũng đều dành cho anh Ðiền sự kính
trọng và cảm tình vô cùng nồng hậu. Có nhiều khi
năm ba ngày không thấy anh ghé đến chơi, chúng tôi
hỏi Luật sư Anh thì anh chàng này cho biết rằng
anh Ðiền ở tận trong Bình Thủy, cách thành phố
Cần Thơ lối chừng chưa đến
mười cây số, do đó chỉ khi nào anh Ðiền
nhắn thì anh ấy mới vô Bình Thủy đón anh ra
Cần Thơ chơi.
Ðến khoảng cuối năm 1960 thì anh
Ðiền gần như không đến gặp chúng tôi nưã
và sau cuộc đảo chánh bất thành ngày 11 tháng 11
năm 1960 thì chúng tôi cũng trở nên dè dặt trong
lời ăn tiếng nói hơn trước. Riêng tôi thì
lại càng dè dặt hơn sau khi bị Ðoàn Công Tác Ðặc
Biệt Miền Trung "hỏi thăm sức
khoẻ," do đó những buổi nói chuyện trên
trời dưới đất của bọn chúng tôi
lại quay sang đề tài vô thưởng vô phạt,
chẳng hạn như là nói về ... chuyện
chưởng.
Chúng tôi gần như quên anh Ðiền thì vào
khoảng tháng 3 năm 1961, nhà trường chỉ thị
cho một số giáo sư, trong đó có tôi, phải
đến tham dự buổi thánh lễ do vị tân Giám
Mục Ðiạ phận Cần Thơ làm chủ tế
lần đầu tiên sau khi được thụ phong
tại Sài Gòn cách đó chừng hơn một tháng.
Tôi không phải là người theo Thiên Chúa
giáo, lại không thích lễ ở nhà thờ vì hồi mới
vào trung học, tôi sống nội trú trong một
trường Thánh La Salle và ngày nào cũng phải dậy
sớm để dự thánh lễ từ năm giờ
sáng. Do đó khi đến dự lễ tại nhà thờ
chánh toà Cần Thơ thì tôi tìm cách đứng sau tận
cùng nhà thờ, thỉnh thoảng lại còn lén ra ngoài hút
thuốc lá, do đó cũng không để ý gì nhiều
đến vị tân giám mục. Tuy nhiên khi vị chủ
tế đưa thánh giá lên và nghe tiếng chuông leng keng thì
tôi thật mừng vì biết rằng buổi lễ
sắp kết thúc, từ cuối nhà thờ, tôi nhìn lên phiá
bàn thờ và ngạc nhiên khi thấy vị tân giám mục
trông có vài nét quen thuộc, tuy nhiên sau buổi lễ, tôi ra
về nhưng cũng không để ý gì đến
chuyện đó vì tôi không hề quen biết với một
vị linh mục hay giám mục nào trong vùng Hậu Giang này
cả.
Ít lâu sau đó, một vài người trong
đó có tôi nhận được thư mời của
Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền đến dự một
bưã cơm thân mật tại Toà Giám Mục. Tôi rất
ngạc nhiên vì tôi không hề quen biết với ông tân giám
mục này, khi tôi hỏi Luật sư Anh thì hắn ta
chỉ cười cười nói với tôi rằng:
"Thì lát nưã toa gặp ông ấy rồi sẽ
biết!" Tuy hắn nói như vậy nhưng tôi
bỗng chợt nghĩ ra: "Không lẽ ông tân giám mục
lại là... anh Ðiền?"
Khi Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền ra
tiếp đón chúng tôi thì tôi chưng hửng, vưà
ngạc nhiên vưà thích thú vì đúng như sự tiên
đoán của tôi, Ðức Giám Mục chính là... anh Ðiền!
Ngay lúc đó, dù rằng có sự quen
biết nhưng giưã vị tân giám mục và chúng tôi thì
đã có một khoảng cách thật xa vì đối
với chúng tôi thì ông không còn là anh Ðiền khi xưa nưã
mà đã trở thành người lãnh đạo tinh thần
của một tôn giáo lớn tại miền Tây. Tuy nhiên, khi
gặp lại chúng tôi, Ðức Cha Ðiền tiếp đãi
chúng tôi vô cùng cởi mở và thân thiện, từ cử
chỉ đến lời ăn tiếng nói, ông vẫn
đối xử với chúng tôi như xưa.
Tôi vô cùng cảm động và nói với
ông: -Thưa Ðức Cha, con xin thành thật xin lỗi là trong
thời gian qua, chúng con không hề được biết
Ðức Cha là linh mục cho nên đôi khi đã có nhiều
điều thất lễ đối với Ðức Cha. Kính xin Ðức Cha niệm tình tha
thứ cho tất cả chúng con."
Ðức Cha cười lớn rồi nói
với chúng tôi: -Thưa các anh, đáng lý ra thì tôi phải
mời các anh đến nói chuyện ở Qúan Ngọc
Lợi như chúng ta vẫn thường nói chuyện
trước kia, tuy nhiên chuyện đó bây giờ không thích
hợp với điạ vị giám mục của tôi và tôi
lấy làm tiếc là đã không được cùng các anh
ngồi nói chuyện trong khung cảnh thân mật hơn
đó. Hôm nay tôi mời các anh
đến đây, trước hết là xin ngỏ lời
cám ơn các anh đã dành cho tôi thật nhiều cảm tình
trước đây và nhất là cám ơn các anh đã cho tôi
biết được nhiều chuyện ở ngoài
đời mà với cuộc sống của một người
linh mục phục vụ trong giới người lao
động nghèo khó thì tôi khó mà biết được. Chính
vì lẽ đó mà tôi đã căn dặn anh Luật sư
Anh nhiều lần là không bao giờ cho các anh biết tôi là
linh mục vì nếu các anh biết tôi là linh mục thì các
anh sẽ trở nên dè dặt với tôi và những buổi
nói chuyện của chúng ta sẽ mất đi phần
hứng thú rất nhiều. Thú thật với các anh là
từ ngày ở ngoại quốc trở về Việt Nam,
chưa bao giờ tôi được sống những
giờ phút đầy thú vị, cả về phương
diện tinh thần lẫn dân tộc vì tôi được
sống giưã những người Việt Nam,
được nghe thảo luận về những vấn
đề của Việt Nam và nhất là được
biết những người Việt Nam có lòng yêu quê
hương, yêu đất nước, yêu đồng bào và
yêu xã hội... của giới trẻ như các anh. Tôi
rất vui mừng vì các anh cũng có cùng chí hướng
như tôi, vì các anh cũng muốn cải thiện
đời sống của người dân, các anh cũng
muốn nâng cao dân trí, cũng muốn sưả đổi
những sai lầm, những khuyết điểm trong xã
hội để xây dựng một cuộc sống
tươi đẹp hơn cho người dân Miền Nam
nói chung và vùng Hậu Giang nói riêng. Thú thật với các anh
là cũng chính vì chí hướng đó mà tôi đã xin tình
nguyện gia nhập Dòng Tiểu Ðệ, một dòng "hèn
mọn"với lý tưởng phục vụ cho dân lao
động, đã sang phục vụ tại Phi Châu và khi
về Việt Nam, tôi cũng đã làm những công việc
lao động để phục vụ cho người dân
nghèo từ Sài Gòn và sau này về Cần Thơ và
được gặp các anh...
Tôi xin cám ơn các anh rất
nhiều..."
Trong buổi gặp gỡ đó, Ðức
Cha Ðiền cho chúng tôi biết một vài chi tiết về
cuộc đời của Ngài: vào chủng viện năm
1930, thụ phong linh mục năm 1947, sau đó làm giáo
sư tại chủng viện Sài Gòn và trở thành giám
đốc chủng viện vào năm 1949. Năm 1955,
Ðức Cha xin tình nguyện gia nhập Dòng Tiểu Ðệ
tức là dòng Little Brothers of Jesus hay là dòng Foucauld do Linh
mục Charles de Foucauld khai sáng.
Tử Tước Vicomte Charles Eugène de
Foucauld (1858-1916) là con nhà thế gia vọng tộc, tốt
nghiệp trường Võ Bị Saint Cyr của Pháp vào
năm 1876 rồi phục vụ trong quân đội Pháp
tại Algérie. Khi còn trẻ ông sống một cuộc
đời ăn chơi phóng đãng, nhưng đến
năm 1882 thì ông rời khỏi quân đội sang khảo
cứu tại nước Maroc (Morocco). Năm 1890, ông vào tu
theo dòng Trappist (một dòng tu theo khổ hạnh) nhưng 7
năm sau thì bỏ dòng tu này, sang Algérie sống như
một nhà ẩn sĩ tại vùng Tamanghasset thuộc
miền Nam nước Algérie, trong vùng sa mạc Sahara. Ông
được thụ phong linh mục vào năm 1901, lúc
bấy giờ đã 43 tuổi. Charles de Foucauld xem tất
cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chủng
tộc và giai cấp đều là anh em (brothers), chị em
(sisters). Foucauld đưa ra những tư tưởng
căn bản để thành lập một dòng tu mới
nhằm mục đích phục vụ cho người nghèo
khổ, tuy nhiên ước vọng này của ông bất
thành vì vào năm 1916 thì ông lại bị người Ả
Rập Hồi giáo giết chết.
Tư tưởng của ông về sau
được Louis Massignon thu thập lại và in thành
cuốn sách "Directory" và đến năm 1933 thì
một dòng tu mới dựa vào đường lối và
tư tưởng của Linh Mục Foucauld được
5 vị chủng sinh thành lập tại Giáo
đường Thánh Tâm (Sacre-Coeurs) ở Montmartre, Paris. Dòng
tu mới này mang tên là Little Brothers of Jesus (Tiểu Ðệ)
dành cho phái nam và Little Sisters of Jesus (Tiểu Muội) dành cho
phái nữ, tuy nhiên nhiều người đã gọi là Dòng
Foucauld.
Ba quy luật căn bản của dòng tu
này là sự nghèo khổ (poverty), sự thanh khiết
(chastity) và sự vâng lời (obedience) màợ tất cả
mọi người gia nhập dòng này đều phải
tuyệt đối tuân phục.
Gần một thế kỷ sau khi ông
bị người Ả Rập giết chết, Linh
mục Charles de Foucauld đã được Toà Thánh Vatican
xem như là một vị tử đạo và ông đã
được Ðức Giáo Hoàng Benedict XVI phong thánh vào ngày 13
tháng 11 năm 2005.
Ðức Cha Nguyễn Kim Ðiền đã là
một linh mục từ năm 1947 nhưng đến
năm 1955 thì ông lại xin gia nhập vào Dòng Tiểu
Ðệ. Ông đã sang tu học tại Bắc Phi, sống
tập thể cùng với các tu sĩ dòng Tiểu Ðệ
ở El-Abiodh và Saint Maximin ở Algérie và phục vụ cho
những người nghèo khổ trong vùng sa mạc Sahara
ở phiá nam nước Algérie. Tháng 11 năm 1956, ông đã
nhận áo dòng Tiểu Ðệ trước mặt Ðức Cha
De Provenchère, Linh mục Voillaume và một số các Soeurs dòng
Tiểu Muội.
Ðến năm 1957, ông trở về
Việt Nam phục vụ cho người nghèo với
nghề lao động chân tay như đạp xích lô,
thợ mộc, thợ hồ v.v. tại Sài Gòn, Lâm Ðồng
và cuối cùng về Cần Thơ sống tại Bình
Thủy. Cuối tháng 11 năm 1960, ông được Toà
Thánh Vatican bổ nhiệm làm Giám Mục Ðiạ Phận
Cần Thơ dù rằng ông đã cố gắng từ
chối vinh dự này, chỉ muốn được ở
lại làm một người "Tiểu Ðệ" mà thôi.
Trong bút ký ghi ngày 8 tháng 12 năm 1960, Linh mục Nguyễn Kim
Ðiền viết như sau: "Chân thành mà nói, tôi khổ tâm
mà không thể hiểu nổi. Ðại
diện Toà Thánh nói rằng tôi không có thể khước
từ. Tôi xin chấp nhận sứ mệnh này như
lời mời đón nhận Thánh Giá..."
Giám mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Ðiền là
người Việt Nam đầu tiên gia nhập Dòng
Tiểu Ðệ và ông cũng là vị linh mục đầu
tiên của dòng này trên toàn thế giới đã
được thụ phong giám mục và sau đó là
tổng giám mục.
Sau lần đó, lâu lâu Ðức Cha lại
cho mời tôi đến Toà Giám mục nói chuyện. Có
lần tôi hỏi Ngài: -Thưa Ðức Cha, tại sao đang
là một vị linh mục, làm giáo sư và giám đốc
một đại chủng viện lớn ở Sài Gòn mà
Ðức Cha lại bỏ tất cả để tình
nguyện gia nhập một dòng tu khổ hạnh
tương đối là mới mẻ, ở mãi tận bên
Phi Châu và Việt Nam rất ít người biết
đến?
Ngài nhìn tôi mỉm cười rồi
trả lời: -Tôi có hoài bão được phục vụ
cho Thiên Chúa nhưng mà cũng có tâm nguyện được
phục vụ cho những người nghèo khổ và
được chia xẻ với họ những sự
khốn khó trên đời. Khi
đọc được những tư tưởng
của Cha de Foucauld thì tôi nhận chân ra rằng đây là con
đường mà Thiên Chúa đã chọn cho tôi, do đó mà
tôi đã tình nguyện sang Phi Châu để gia nhập dòng
Tiểu Ðệ. Tôi muốn phục vụ cho người
nghèo khổ...
Rồi Ðức Cha hỏi lại tôi: -Anh
không phải là người miền Nam, tại sao anh
lại về dạy học ở tận xứ Cần
Thơ này?
Tôi trả lời: -Thưa Ðức Cha, do
một sự tình cờ mà vào mùa Xuân năm 1953, con theo
một người bạn về thăm Tây Ðô và do đó mà
rất có cảm tình với miền Tây. Khi đi dạy học, con nghĩ rằng
trước đó, cả miền Tây tức là toàn miền
Hậu Giang chỉ có mỗi một trường trung
học mà thôi và như vậy thì những người
trẻ tuổi ở vùng này cần đến giáo sư
nhiều hơn là những nơi khác. Con nghĩ rằng sau
mười năm chiến tranh, người nông dân có nhu
cầu phải cho con cái của họ có được
một nền học vấn mà họ chưa hề
được hưởng, con nghĩ rằng một trong
những con đường giúp cho người dân thoát
được cảnh nghèo đói là học vấn, có
học thì mới được mở mang trí tuệ
để tìm cho cá nhân của họ và giúp cho đồng
bào của họ có được một cuộc sống
tốt đẹp hơn về vật chất, về kinh
tế, về xã hội cũng như là tinh thần... Do
đó mà con đã chọn nơi này với ý nguyện giúp
cho những người trẻ tuổi xuất thân từ
những gia đình nông dân chân lấm tay bùn...
Ðức Cha nhìn tôi rồi nói với một
giọng đầy cảm tình: -Tôi cũng nhận thấy
điều đó qua những lời phát biểu của anh
trong thời gian được gần gũi các anh và do
đó mà tôi rất có cảm tình với anh. Tôi thấy rằng dù không cùng
đi theo một con đường nhưng chúng ta
đều cũng có cùng chung một mục đích, đó
là phục vụ cho những người nghèo khổ,
phục vụ cho những người thiếu học
vấn, phục vụ cho những ngưòi kém may mắn...
Lần sau cùng tôi được gặp
Ðức Cha là lần tôi đến thăm để từ
biệt Ngài trước khi lên đường nhập
ngũ. Lúc đó vào khoảng năm 1963, vụ Phật giáo
vưà bùng nổ tại miền Trung và đang lan ra tại
Sài Gòn, tuy nhiên tại miền Tây thì vẫn còn yên tĩnh.
Ðức Cha hỏi ý kiến tôi về vụ này thì tôi
thưa rằng tôn giáo là một lãnh vực mà chính quyền
bất cứ tại quốc gia nào cũng đều không
nên xâm phạm đến vì trong lãnh vực tôn giáo, chính quyền
bao giời cũng sẽ gặp nhiều điều
bất lợi hơn là có lợi.
Ðức Cha hỏi tôi: -Anh có nghĩ rằng
trong cương vị một giám mục cai qủan
điạ phận Cần Thơ, tôi đã có hành
động nào chống lại hoặc làm mất cảm
tình với bên Phật giáo hay không?
Tôi trả lời: -Thưa Ðức Cha,
với người khác thì con không rõ, tuy nhiên đối
với con, một người đã từng từ bỏ
chức vụ giám đốc chủng viện tại Sài
Gòn để tình nguyện sang Phi Châu xin gia nhập vào Dòng
Tiểu Ðệ như Ðức Cha thì không thể nào lại có
tư tưởng kỳ thị tôn giáo cả.. Hơn nưã trong mấy năm
nay, Ðức Cha chỉ biết đóng vai trò của một
vị chủ chiên tại miền Hậu Giang, Ðức Cha
tránh không hề giao thiệp với chính quyền từ
trung ương đến điạ phương, Ðức
Cha luôn luôn hoà đồng với các tôn giáo khác do đó
đã chiếm được cảm tình của mọi
người, mọi tôn giáo ở vùng này. Miền Tây là
điạ bàn của Phật Giáo Hoà Hảo nhưng con không
nghe họ chỉ trích gì về Ðức Cha, trái lại là
đằng khác.
Ðức Cha nhìn tôi mỉm cười, ông
không nói gì tuy nhiên tôi cũng nhìn thấy trên gương
mặt của ông thoáng hiện vẻ ưu tư. Khi tôi xin
kiếu từ, Ðức Cha ân cần dặn dò tôi: -Sau này khi
nào có dịp thì anh phải nhớ đến thăm tôi
nghe!
Tôi vào quân đội rồi sau cuộc
đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, Ðức Cha cũng
rời Cần Thơ ra Huế nhận chức Giám Qủan
Tổng Giáo Phận Huế thay cho Tổng Giám mục Ngô
Ðình Thục. Huế thuộc Vùng I Chiến Thuật
nhưng trong suốt thời gian tại ngũ, tôi chưa
hề có dịp được phục vụ tại Vùng
I, do đó chưa từng có dịp gặp lại Ðức
Cha Ðiền cho đến ngày hôm đó.
Ngày hôm sau, y như lời hẹn, tôi
đến Toà Tổng Giám Mục Huế thăm Ðức Cha
Nguyễn Kim Ðiền. Ngài đón tiếp tôi với một
sự chân tình, với sự thân mật mà Ngài đã dành cho
tôi như trên mười năm về trước. Ngài
trách tôi đã không tìm đến thăm Ngài thì tôi viện
cớ rằng tôi ít có dịp ra miền Trung, vả lại
mỗi lần ra Huế, tôi chỉ ở lại có vài ngày
và không dám đến thăm vì sợ làm phiền Ðức
Cha. Ông nhìn tôi rồi nghiêm mặt nói: -Này ông giáo sư! Ðối với ông thì bao giờ
tôi cũng là Anh Ðiền ở Cần Thơ như ngày
xưa. Ðừng có bao giờ nghĩ như vậy vì bao
giờ tôi cũng nhớ đến Cần Thơ, bao
giờ tôi cũng nhớ đến các anh, bao giờ tôi
cũng muốn gặp lại các anh...
Ðức Cha hỏi tôi về cuộc
đời của tôi trong quân đội thì tôi thưa
với Ngài rằng tôi được giải ngũ vào
năm 1967 rồi lại bị tái ngũ sau Tết Mậu
Thân và hiện giờ đang phục vụ tại một
cơ quan ở Sài Gòn. Ông hỏi thăm tôi về Cần
Thơ, về những người bạn cũ của tôi
thì tôi thưa rằng từ ngày đi lính tôi cũng ít có
dịp trở về Tây Ðô và cũng ít có dịp gặp
lại những người bạn cũ, chỉ nghe nói mà
thôi. Ông hỏi về những người ông còn nhớ
như Luật sư Nguyễn Văn Anh thì tôi cho biết
Luật sư Anh lúc đó đang làm đại sứ
Việt Nam Cộng Hoà tại Thụy Sĩ, ông hỏi
về anh Ðàm Quang Ðôn thì tôi cho biết anh Ðôn đắc
cử vào Quốc Hội Lập Hiến và hiện đang
hành nghề luật sư ở Cần Thơ, ông hỏi
về Bác sĩ Ngô Văn Hiếu thì tôi cho biết Bác Sĩ
Hiếu cũng đã đắc cử vào Quốc
Hội...
Ðột nhiên Ðức Cha hỏi tôi: -Hôm qua sau
khi anh đi rồi thì tôi gặp Ôn Thích Mật Nguyện và
được Ôn cho biết anh là Phật tử và là
đệ tử của một vị cao tăng ở
Huế. Vậy mà lâu nay anh
không hề cho tôi biết anh là Phật tử cả.
Tôi thưa với Ðức Cha: -Thưa
Ðức Tổng, mẹ con là một Phật tử vì khi còn
trẻ, bà tình nguyện đến hầu hạ săn sóc
cho Cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, kế
cạnh chùa Từ Ðàm, do đó bà có dịp được
quen biết với nhiều vị tăng ni lui tới
viếng thăm, đàm luận với Cụ Phan. Sau này mẹ con xin quy y và cả
gia đình đã được một vị hoà
thượng bạn của Cụ Phan đỡ
đầu. Tuy cả gia đình theo đạo Phật
nhưng riêng con thì chỉ là loại non-pratiquant mà thôi. Vì con
trưởng thành tại miền Nam cho nên có quan niệm
rất cởi mở, bạn bè của con có người
theo Công Giáo, có người theo Phật giáo, có người
theo Tin Lành, có người theo Cao Ðài và cũng có
người theo Hoà Hảo v.v., tuy nhiên chúng con không bao
giờ phê bình hay thảo luận về bất cứ
một tôn giáo nào.
Rồi Ðức Cha quay sang chuyện khác: -À,
hôm qua Ôn Mật Nguyện cũng còn cho tôi biết chính anh là
người đã khuyên Ðại Tá S. không nên ra làm tỉnh trưởng Thưà Thiên. Tôi nghe
nói ông S. là người rất tốt, ngoài này cả hai bên
Phật giáo và Công giáo đều rất có cảm tình,
nhất là phiá bên Công giáo, tại sao anh lại khuyên ông ta
như vậy?
Tôi cười khổ, phân trần:
-Thưa Ðức Tổng, chuyện ông Ðại Tá S. từ chối không nhận ra
Huế làm tỉnh trưởng là quyết định
của ông ấy chứ con có trách nhiệm gì đâu? Sự
thật thì khi nghe tin sẽ được chỉ
định làm tỉnh trưởng, ông ấy có hỏi ý
kiến con và con đã phân tách những yếu tố
lợi và hại để ông ấy quyết định:
tuy ông là người Công giáo nhưng ông nội của ông là
Phật tử, lại là bạn rất thân với Hoà
Thượng Thích Ðôn Hậu, do đó mà bên Phật giáo
rất có cảm tình với ông; người ông thay thế
là Ðại Tá Lê Văn Thân, một sĩ quan theo Thiên Chúa giáo
và là người miền Bắc nhưng lại vô cùng khôn
khéo cho nên rất được lòng bên Phật giáo và
giới sinh viên trẻ; vợ của Ðại Tá S. lại có
liên hệ họ hàng rất gần với gia đình
cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và nhất là yếu
tố khi Ðại Tá S. từ Hoa Kỳ trở về
Việt Nam vào cuối tháng 10 năm 1963, ông ra Huế
thăm gia đình đúng vào lúc cuộc đảo chánh
xẩy ra, chính ông là người đã đưa ông Ngô Ðình
Cẩn từ Phủ Cam đến Dòng Chúa Cứu Thế
để tỵ nạn...
Sau khi đưa ra những yếu tố
đó, con có nói với Ðại Tá S. rằng khi bình yên vô sự thì chẳng có sao, nhưng
khi có một vài sự trục trặc nào đó, liệu
sinh viên Huế có để yên cho Ðại Tá S. về liên
hệ của ông với gia đình Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm hay không? Liệu ông có tránh khỏi việc bị
lên án là "Cần Lao ác ôn" hay không? Ngoài ra, Huế là
điạ bàn hoạt động của nhiều
đảng phái chính trị, liệu ông có đủ khả
năng và kinh nghiệm để làm vưà lòng tất
cả các đảng phái đó hay không?
Về phương diện binh nghiệp,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp
khoá 1 trường Sĩ Quan Huế, Ðại Tá S. tốt nghiệp khoá 2; khi Trung Tá
Nguyễn Văn Thiệu làm Chỉ Huy Trưởng
trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt thì Thiếu Tá S.
làm Chỉ Huy Phó; khi sang Hoa Kỳ thay thế cho Trung Tá Cao
Văn Viên làm Tùy Viên Quân Lực thì ông S. cũng đã mang
cấp bậc Trung Tá, bây giờ ông Cao Văn Viên làm Ðại
Tướng còn ông S. thì chỉ mới có Ðại Tá, như
vậy thì đi giữ chức vụ tỉnh
trưởng có lợi gì hay không cho cuộc đời binh
nghiệp, nhất là ông biết rất rõ rằng ông sẽ
không bao giờ được cử vào chức vụ
tư lệnh sư đoàn để lên tướng?
Thưa Ðức Tổng, sự thật thì
con chỉ có đưa ra những yếu tố như
vậy và từ chối không đi làm tỉnh trưởng
là quyết định của Ðại Tá S. Cách đây hai hôm, con có
được Ôn Thích Mật Nguyện kêu lên chùa để
hỏi về chuyện này và bị Ôn la cho một trận.
Ôn nói rằng con là người Phật giáo mà lại đi
"hại" Phật giáo vì đã khuyên Ðại Tá S. không
nên đi làm tỉnh trưởng Huế. Con cũng đã
giải thích mọi sự như vậy cho Ôn nghe và sau
đó thì Ôn đã thông cảm rồi.
Bây giờ Ðức Tổng lại hỏi
thì con cũng xin trình bày như vậy, quyết định
từ chối không đi làm tỉnh trưởng hoàn toàn là
do Ðại Tá S. quyết
định.
Ðức Cha suy nghĩ một hồi rồi
nói với tôi: -Thật ra thì ở ngoài này ai nấy cũng
đều rầt mừng khi nghe tin Ðại Tá S. được đề cử
thay thế Ðại tá Thân làm tỉnh trưởng vì ông S. là
người nổi tiếng là đạo đức và
trong sạch, do đó khi nghe tin ông từ chối thì ai
cũng thất vọng cả. Bây giờ nghe anh nói thì tôi
mới biết có những nguyên nhân bên trong như vậy và
tôi cũng thông cảm với ông Ðại tá S. vì quyết
định như vậy thật là sáng suốt.
(Sau khi từ chối không nhận chức
tỉnh trưởng Thưà Thiên, Ðại Tá S.
được bổ nhiệm làm Tùy Viên Quân Lực tại
London và hiện nay đang làm Thầy Sáu tức là Phó Tế
tại London, Anh Quốc.)
Sau một hồi chuyện vãn, bỗng
Ðức Cha quay sang hỏi tôi về một vấn
đề khác: - Anh ở Sài Gòn chắc là biết nhiều
về tình hình chính trị. Ở
đây rất gần giới tuyến, điều
người dân ở đây lo ngại nhất là liệu
Cộng sản có xua quân tấn công vào miền Nam qua vỹ
tuyến 17 hay không?
Tôi thưa với Ngài rằng hiện nay
cả bốn phe Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà, Cộng
sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng
miền Nam đang tham gia hoà đàm tại Paris. Cộng
sản nắm được một lợi điểm
chiến lược, đó là ai cũng biết Hoa Kỳ
đã quyết định rút quân từ năm 1969 và quân
số Hoa Kỳ tại miền Nam càng ngày càng giảm,
họ đang giao hết gánh nặng chiến tranh cho
Việt Nam qua chương trình Việt Nam hoá chiến tranh.
Chỉ trong vòng hai năm, Nixon đã rút từ trên
nưả triệu quân xuống còn có khoảng 150,000 và
như vậy thì Cộng sản Bắc Việt đã
thấy rõ là Hoa Kỳ đang thay đổi chính sách,
từ đương đầu trực tiếp trên
chiến trường với Cộng sản, họ đã
để cho VNCH thay thế vai trò đó và họ chỉ còn
chú trọng đến giải pháp thương thuyết
tại Paris mà thôi, điều đó có nghiã là rất có
thể các lực lượng Hoa Kỳ sẽ không can
thiệp nếu Cộng sản mở các cuộc tấn
công tại miền Nam.
Nếu Cộng sản tin tưởng vào
sự tính toán đó thì rất có thể họ sẽ
mở một cuộc tấn công đại quy mô qua vỹ
tuyến thứ 17 và trong trường hợp đó,
nếu không có sự can thiệp của Hoa Kỳ thì
lực lượng Việt Nam Cộng Hoà tại vùng
giới tuyến khó mà đương đầu nổi
vơi sự tấn công của Cộng sản.
Ðức Cha Ðiền hỏi tôi rằng
nếu giả thử Cộng sản chiếm
được Huế thì họ sẽ đối xử
với người Công giáo, với những người
lãnh đạo Công giáo như thế nào? Tôi trả lời
rằng đối với Cộng sản thì tất cả
mọi tổ chức tôn giáo tại miền Nam, bất
cứ là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Ðài hay Hoà Hảo,
tất cả đều bị họ xem như là những
thành phần thù nghịch và phản động, họ
sẽ tìm mọi biện pháp để kiểm soát rất
gắt gao. Bản chất của chủ nghiã Cộng
sản là không chấp nhận tín ngưỡng cho nên họ
sẽ tìm cách tiêu diệt mọi tín ngưỡng và nếu
chưa làm được thì họ để cho những
tổ chức ngoại vi như là Mặt Trận Tổ
Quốc cũng như là đưa cán bộ vào để
nắm quyền kiểm soát những tín ngưỡng này và
đồng thời họ cũng sẽ tìm cách thanh toán
những nhà lãnh đạo tôn giáo có uy tín.
Riêng đối với Thiên Chúa giáo La Mã thì
Cộng sản đã có nhiều kinh nghiệm tại các
nước Ðông Âu sau Ðệ Nhị Thế chiến: lúc ban
đầu, họ đàn áp Thiên Chúa giáo, nhất là các
vị lãnh đạo nhưng sau một thời gian thì
họ không đối đầu với cá nhân các vị
giám mục và linh mục nưã mà nói chuyện trực
tiếp với Vatican. Tôi nêu ra với Ðức Cha trường
hợp hai vị hồng y: Hồng Y Stephan Wyszynski, Tổng
Giám Mục Varsovie, Ba Lan bị Cộng sản bắt giam
từ năm 1953 đến năm 1956 và Hồng Y Joseph
Mindszenty, Tổng Giám Mục Giáo Hội Hung Gia Lợi
(Archbishop of Esztergom) đã bị Cộng sản bắt giam
vào năm 1948 và bị đưa ra toà về những
tội như phản quốc, âm mưu chống nhà
nước Hung Gia Lợi. Trong phiên toà này, Hồng Y Mindszenty
đã tuyên bố hoàn toàn phủ nhận tội trạng và
yêu cầu giáo dân không nên tin vào những lời khai trong
bản cáo trạng vì những lời khai này đã bị
công an mật vụ Cộng sản ép buộc phải ký
trong những cuộc tra tấn dã man. Sau cuộc Cách
mạng tháng 10 năm 1956, nghe theo lời khuyên của
Thủ Tướng Imre Nagy, trước khi ông bị
mật vụ Liên Xô xử tử, Ðức Hồng Y Mindszenty
xin vào tỵ nạn trong toà đại sứ Hoa Kỳ
ở Budapest trong 15 năm trời. (Ðến năm 1971,
Ðức Hồng Y mới được chính phủ
Cộng sản Hung cho phép sang sống tại Vienna, thủ
đô nước Áo.)
Ðó là chính sách của Cộng sản
đối với Giáo Hội Công Giáo thời Stalin và sau này
thì có phần cởi mở hơn, tuy nhiên không rõ những
người Cộng sản Việt Nam sẽ theo chiều
hướng nào.
Ðức Cha ngạc nhiên hỏi tôi: "Sao
anh không phải là người Công Giáo mà lại biết
nhiều như vậy về hai vị hồng y này?"
Tôi thưa với Ðức Cha rằng tôi đang làm công
việc về nghiên cứu cho nên mới được
biết một vài chuyện ở bên Ðông Âu như vậy.
Ðức Cha Ðiền lặng lẽ nhìn tôi
rồi nói bằng một giọng kiên quyết: - Là
người được Ðức Thánh Cha trao cho nhiệm
vụ Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế, trong
trường hợp Cộng sản chiếm
được thành phố này thì tôi sẽ ở lại
với giáo dân vì tôi là "người chủ chăn"
của họ. Một trong ba
châm ngôn của Dòng Tiểu Ðệ là Vâng Lời và tôi sẽ
vâng theo những lời dạy của Toà Thánh, đó là
phải sống bên cạnh giáo dân để hướng
dẫn giáo dân trong những cơn nguy biến.
Trong bưã cơm trưa thân mật sau
hơn mười năm cách biệt, Ðức Cha đã dành
cho tôi sự ưu ái và cảm tình như thưở nào
ở Cần Thơ và khi từ biệt Ngài bắt tôi
phải cho Ngài điạ chỉ cùng số điện
thoại để Ngài liên lạc mỗi khi vào Sài Gòn. Ngài
cũng bắt tôi phải hưá là khi nào có dịp ra
Huế thì phải đến thăm Ngài.á
Vào khoảng năm 1974, một hôm tôi
nhận được điện thoại của Ngài
mời tôi ngày hôm sau đến gặp Ngài ở Toà Tổng
Giám Mục Sài Gòn trên đường Phan Ðình Phùng. Sau khi chào
hỏi, thấy tôi cứ nhìn Ngài chăm chú, Ðức Cha bèn
hỏi tôi: - Tôi có gì lạ mà anh cứ nhìn chăm chú như
vậy?
Tôi thưa với Ngài: - Thưa Ðức
Tổng, con muốn xem Ðức Tổng "đỏ"
cở nào?
Ngài cười lớn hỏi lại tôi: À! Vậy là anh cũng có nghe mấy ông nhà báo ở bên
Rô-ma gọi tôi là vị "Giám mục Ðỏ" phải
không?
Năm đó Ðức Tổng Giám Mục
Nguyễn Kim Ðiền sang La Mã tham dự Thượng
Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới và khi
được một số ký giả ngoại quốc
hỏi rằng "Có dư luận nói rằng Cộng
sản Bắc Việt sẽ chiếm trọn miền Nam,
Ngài nghĩ sao về Cộng sản Việt Nam?" thì Ngài
trả lời rằng: "Là giám mục Công giáo, tôi không
bao giờ chấp nhận chủ nghiã Cộng sản,
nhưng người Cộng sản Việt Nam cũng là
người anh em của tôi." Vì trả lời như
vậy cho nên có một số ký giả ở Rô-ma đã
gọi Ngài là "Vị Tổng Giám mục Ðỏ."
Tôi không nhớ báo chí Sài Gòn có đăng tin
đó hay không nhưng tôi có được đọc tin
đó do hãng thông tấn Reuters đăng trên télétype
(viễn ấn) cho nên được biết chuyện này.
Ðức Cha Ðiền hỏi tôi: -Anh nghĩ
sao khi tôi nói rằng "...người
Cộng sản Việt Nam cũng là anh em của tôi"?
Tôi trả lời: - Thưa Ðức
Tổng, người dân miền Nam chúng ta tuy chống
lại Cộng sản nhưng chúng ta vẫn xem những
người miền Bắc, kể cả những
người Cộng sản, đều là người
Việt Nam, tức là đều là anh em với nhau cả. Ðức Tổng nói như vậy
thì chẳng có gì là không đúng. Tuy nhiên, vấn đề là
ở chỗ người Cộng sản miền Bắc có
xem người miền Nam chúng ta, nhất là những
người Công giáo miền Nam, là anh em của họ hay
không? Vào năm 1946, gần một năm sau khi Cộng
sản Việt Minh giết nhà cách mạng Tạ Thu Thâu
tại Qủang Ngãi, khi bị những người trí
thức Pháp và Việt Nam chất vấn tại Paris về
việc Tạ Thu Thâu bị thủ tiêu thì ông Hồ Chí Minh đã
trả lời như thế này: "Tạ Thu Thâu là
một người yêu nước, tôi đã khóc về cái
chết của ông ta. Tuy nhiên, tất cả những ai không
đi theo đường lối do chúng tôi đã hoạch
định thì chúng tôi cần phải tiêu diệt."
Vậy thì đối với người Cộng sản,
họ không có anh em với những người không
đứng chung một hàng ngũ với họ, do đó
khi Ðức Tổng nói rằng "là giám mục Công giáo, tôi
không chấp nhận chủ nghiã Cộng sản"tức
là không theo đường lối của họ thì làm sao mà
họ lại xem Ðức Tổng và những tín đồ
Công giáo là anh em của họ được?
Ðức Cha Ðiền suy nghĩ một
hồi rồi nói với tôi: -Anh còn nhớ cách đây
mấy năm tôi có nói với anh rằng nếu Việt
Cộng chiếm thành phố Huế thì tôi sẽ ở
lại với giáo dân vì sứ mạng của tôi là bảo
vệ cho giáo dân, là chia xẻ mọi nổi đau
thương khổ hận của họ. Toà Thánh đã ra lệnh cho các linh
mục và giám mục là phải luôn luôn làm nhiệm vụ
chăn dắt con chiên dù trong bất cứ hoàn cảnh nào
thì tôi luôn luôn vâng lệnh của Toà Thánh, tôi sẽ ở
lại với giáo dân, dù họ có xem tôi không phải là anh em
thì tôi vẫn sẽ ở lại để thi hành nhiệm
vụ và trách nhiệm do giáo hội giao phó. À, nhân tiện
tôi cũng cám ơn anh đã đề cập đến
hai vị Hồng Y Stephan Wyszynski, Tổng Giám Mục
Varsovie, và Hồng Y Joseph Mindszenty, Tổng Giám Mục Giáo
Hội Hung Gia Lợi. Trong thời gian ở Rô-ma, tôi đã
có cơ hội tìm hiểu về cuộc đời
của hai ngài và nhờ đó đã có được
một khái niệm về chính sách của Cộng sản đối
với giáo hội Công Giáo tại Ðông Âu.
Sau một hồi chuyện vãn, Ðức Cha
nói với tôi: -Này anh giáo sư, sao anh lại dấu tôi hai
chuyện: một là anh không cho tôi biết anh đang làm
việc ở đâu, hai là anh không nói cho tôi biết anh là
bạn của Linh Mục Raymond de Jaegher!
Tôi thưa với Ðức Cha: -Thưa
Ðức Tổng, về chuyện công việc thì con quan
niệm rằng là một quân nhân, con không có quyền
chọn lưạ, con phải phục vụ bất
cứ đơn vị hay cơ quan nào mà quân đội
chỉ định mà thôi. Sở
dĩ con không trình với Ðức Tổng nơi con làm
việc là vì con biết Ðức Tổng không có mấy
cảm tình với ông "sếp" của con, do đó
muốn giữ cho mối liên hệ với Ðức Tổng
thân tình và tốt đẹp mãi mãi như xưa cho nên con
đã không nói, không nói vì Ðức Tổng không hỏi
đến chứ không phải là dấu Ðức Tổng.
Còn chuyện Cha De Jaegher thì con không nói vì nếu tự
dưng nói ra thì chẳng hoá ra rằng con khoe với Ðức
Tổng về sự quen biết này hay sao?
Ðức Cha Ðiền nói với tôi: -Tôi
rất thích bản tính khiêm tốn của anh, nếu
Ðức Tổng Sài Gòn không nói ra thì tôi có biết gì đâu! Ðức Tổng Sài Gòn nói với
tôi rằng Cha De Jaegher rất thích anh và khen ngợi anh
nhiều lắm. Ðức Tổng Sài Gòn cũng rất có
cảm tình với anh. Kể ra thì cũng thật là lạ
lùng, một người không phải là Công giáo như anh mà
lại quen biết thân tình với cả hai vị tổng
giám mục Huế và Sài Gòn cùng với một linh mục
nổi tiếng người Mỹ nưã! Sao anh lại
quen Cha De Jaegher?
Tôi thưa với Ngài: -Cha Raymond de Jaegher là
một nhân vật nổi tiếng, tác giả nhiều
cuốn sách trong đó có hai cuốn rất nổi tiếng
tại Việt Nam, đó là "Kẻ Nội Thù" (The
Ennemy Within) và cuốn "Vệ Binh Ðỏ" (Red Guards). Truớc năm 1963, Ngài là cố
vấn về Cộng sản cho Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch,
một người nổi tiếng như vậy thì làm sao
mà con có tham vọng được quen biết? Nhân dịp
tham dự một hội nghị ở Ðài Bắc, con
được giới thiệu với Cha Jaegher rồi sau
đó, Việt Nam Cộng Hoà được ủy
nhiệm phụ trách một nguyệt san bằng Anh ngữ
mà hồi Ðệ Nhất Cộng Hoà do chính Cha Jaegher làm
chủ nhiệm. Con là người được chỉ
định phụ trách phần bài vở của nguyệt
san đó, cho nên về sau, mỗi lần Cha Jaegher sang Sài
Gòn, Ngài thường trú ngụ tại Toà Tổng Giám
Mục và liên lạc với con về công việc, do đó
mà trở nên thân tình. Con được may mắn quen
biết với Ðức Tổng Sài Gòn cũng là nhờ
sự giới thiệu của Cha de Jaegher.
Ðức Cha Ðiền quay sang hỏi tôi về
chuyện khác: -Anh đến thăm tôi như thế này,
nếu "ông sếp" của anh mà biết
được thì anh có ngại gì không?
Tôi không ngần ngại trả lời:
-Thưa Ðức Tổng, con được quen biết
với Ðức Tổng cả chục năm trước
khi về làm việc dưới quyền "ông
sếp", bởi vậy nếu ngại thì con đã không
đến và nay con đã đến thì chẳng có e
ngại gì cả.
Vào thời gian đó có một bản tuyên
ngôn chống tham nhũng do một số linh mục ký tên
được phổ biến tại Sài Gòn và nhân dịp
gặp Ðức Tổng Giám Mục, tôi mạo muội
hỏi Ngài: -Nhân tiện con xin được phép hỏi
Ðức Tổng về một vấn đề thời
sự có liên quan đến Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Con đã được
đọc Bản Tuyên Ngôn Chống Tham Nhũng Và Tệ
Ðoan Xã Hội của Hàng Linh Mục Việt Nam công bố
tại nhà thờ Tân Sa Châu ngày 18 tháng 6 năm 1974, do 301
vị linh mục ký tên. Con không thấy tên của hai
Ðức Tổng trên bản tuyên ngôn này, tuy nhiên nhân dịp
được gặp Ðức Tổng, con xin phép hỏi:
Ðức Tổng có được hỏi ý kiến về
Bản Tuyên Ngôn này hay không?
Sau một hồi trầm ngâm, Ðức Cha
hỏi lại tôi: -Anh có nghĩ rằng tôi ủng hộ
Bản Tuyên ngôn này?
Tôi trả lời: -Thưa Ðức Tổng,
trong bản tuyên ngôn này không có tên hai vị Tổng Giám
Mục Sài Gòn và Huế, tuy nhiên theo chỗ con biết thì các
vị linh mục này đã dưạ vào tinh thần
của Lá Thư Chung Của Hội Ðồng Giám Mục
Việt Nam ngày 29 tháng 9 năm 1973 và Bản Tuyên Ngôn Của
Hội Ðồng Giám Mục ngày 10 tháng 1 năm 1974. Cả hai vị Tổng Giám
Mục cùng với tất cả các vị giám mục khác
đều có ký tên vào trong hai bản văn này. Như
vậy thì một cách gián tiếp, các vị lãnh đạo
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam coi như là đã đồng
ý với tinh thần của bản tuyên ngôn của 301
vị linh mục?
Ðức Tổng hỏi lại tôi: -Bây
giờ tôi hỏi anh: Lá Thư Chung và Bản Tuyên Ngôn
của Hội Ðồng Giám Mục có mang lại ảnh
hưởng nào không?
Tôi trả lời: -Thưa Ðức Tổng,
cả hai bản văn này được phổ biến
rất là hạn chế vì ít được báo chí
đăng tãi, do đó có rất ít người biết
đến, kể cả một số linh mục nổi
tiếng như L.M. Hùynh Văn Nghi (sau này là giám mục)
cũng không hề được biết. Tuy nhiên, có dư luận nói
rằng việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
cải tổ chính phủ, thay thế bốn vị
tổng trưởng cũng như là giáng cấp một
số sĩ quan cao cấp trong đó có cả hai vị
tướng tư lệnh Vùng 4 và Vùng 2 gần đây,
một phần là do hậu qủa của hai bản
bản tuyên ngôn này. Như vậy thì hai bản tuyên ngôn
của Hội Ðồng Giám Mục cũng đã mang lại
kết qủa tốt vì cuộc cải tổ của
Tổng Thống Thiệu, tuy chỉ là cải tổ
nhỏ giọt, nhưng cũng được nhiều
giới hoan nghênh.
Ðức Tổng hỏi tôi: -Tôi biết anh
rất tôn trọng nguyên tắc "phân quyền giưã nhà
nước và giáo hội" nhưng trong trường
hợp hai bản tuyên ngôn này, anh có nghĩ rằng Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam, trong đó có tôi, đã vi phạm
vào nguyên tắc này hay không?
Tôi thưa: -Thưa Ðức Tổng, ngày
xưa con vẫn lớn tiếng chỉ trích Giám Mục Ngô
Ðình Thục vì ông đã lạm dụng vị thế
quốc trưởng của Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm để làm những điều có lợi cho riêng
cá nhân của ông. Ðức
Tổng cũng biết người xưa thường nói
"Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Sau
Hiệp Ðịnh Paris, tình trạng chính trị, kinh tế và
nhất là quân sự càng ngày càng suy sụp tại miền
Nam và do đó, tất cả mọi công dân đều
phải có trách nhiệm nói lên tiếng nói của mình
để chính quyền phải sưả sai những sai
lầm, khuyết điểm ngõ hầu cải thiện
chế độ để giữ nước và cứu
nước. Con nghĩ rằng những bậc tu hành, dù
thuộc bất cứ tôn giáo nào, trước hết
họ cũng là công dân của nước Việt Nam
Cộng Hoà và do đó họ có bổn phận phải nói
lên tiếng nói của họ để cứu nước.
Họ lên tiếng vì quyền lợi của đất
nước, vì quyền lợi của toàn dân chứ không
phải vì quyền lợi của cá nhân họ, do đó con
không nghĩ rằng các vị giám mục và linh mục
đã vi phạm vào nguyên tắc "phân quyền giưã nhà
nước và giáo hội."
Ðức Tổng Giám Mục kết luận:
-Tôi nghĩ rằng anh cũng cùng một chí hướng
với tôi và rất cám ơn anh đã thông cảm với
tôi trong hoàn cảnh khó xử này: dù là Tổng Giám Mục
nhưng trước hết tôi là một người công
dân Việt Nam. Tôi xin anh
đọc lại đoạn kết lụân trong Lời
Tuyên Bố trong buổi họp báo hồi tháng 6 năm 1974
để hiểu rõ hơn về lập trường
của cá nhân tôi."
Về sau tôi tìm đọc lại Bản
Tuyên Ngôn của 301 vị linh mục ngày 18 tháng 6 năm 1974
tại Nhà Thờ Tân Sa Châu thì đoạn kết nguyên
văn như sau:
"...Hiến pháp
Việt Nam Cộng Hoà đã long trọng công nhận khi ghi
vào Ðiều I Khoản 2 như sau: "Chủ quyền
Quốc gia thuộc về toàn dân."
"Mặc dầu
thế, chúng tôi không muốn gây xáo trộn, bởi quốc
gia đã chịu qúa nhiều xáo trộn. Chúng tôi chỉ
muốn lên tiếng cảnh tỉnh vì sự sống còn
của dân tộc để chính quyền kịp thời
sưả sai, thay đổi hoàn toàn chính sách và nhân sự
hầu tránh sụp đổ trước khi qúa muộn.
Nếu không chịu sưả sai để cho đất
nước này lâm vào cảnh mạt vong thì chắc chắn
Quân Dân không chịu cúi đầu cam chịu làm vật hy
sinh mãi mãi cho một thiểu số tham nhũng không còn
biết đến Dân Tộc và Tổ Quốc là gì nưã.
Khi ấy, cùng tất biến, những gì phải xẩy ra
sẽ xẩy ra, ngoài ý muốn của chúng tôi, bởi
lẽ như Thánh Thomas d'Aquin đã nói: "Chính
Quyền Ðã Phản Nghịch!"
Sau lần đó, đến khoảng tháng
3 năm 1975, chỉ vài ngày sau khi Cộng sản tấn công
Ban Mê Thuột, tôi nhận được điện
thoại của Ðức Tổng Giám Mục mời tôi
đến gặp ông. Ngài nói với tôi: -Tôi muốn gặp
anh vì tôi đang tìm mọi cách trở về Huế ngay. Ai cũng biết là chẳng
sớm thì muộn, Cộng sản Bắc Việt sẽ
tấn công vào Vùng I và trong trường hợp đó, chính
anh trước đây cũng đã nói với tôi rằng
chúng ta không đủ sức giữ Huế. Tôi phải
trở về Huế trước khi thành phố này bị
thất thủ vì như tôi đã nói với anh trước
đây, tôi muốn cho giáo dân thấy rằng giáo hội luôn
luôn ở bên cạnh họ, luôn luôn bảo vệ
đời sống tinh thần của họ và luôn luôn chia
xẻ với họ mọi nổi thống khổ của
họ... Là người chủ chăn, tôi có nhiệm
vụ phải thi hành sứ mạng mà Giáo Hội giao phó cho
tôi, đó là sống chết với con chiên. Tôi muốn
gặp anh là để từ giã một người
bạn cũ đã từng quen biết nhau hơn
mười mấy năm trời, người mà tôi đã
dành nhiều cảm tình và sự qúy mến từ ngày còn
ở Cần Thơ...
Tôi nhìn Ðức Cha Ðiền, nghẹn ngào vì
xúc động. Một lúc sau, tôi ngập ngừng thưa
với Ngài: -Thưa Ðức Tổng, con muốn xin Ðức
Tổng ban cho con một đặc ân.
Ngài nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên
rồi hỏi lại: -Xưa nay có bao giờ anh xin tôi
một ân huệ nào đâu?
Tôi nhìn Ngài rồi nói: -Con là người
ngoại đạo nhưng muốn xin Ðức Tổng ban
cho một ân huệ, đó là cho con được phép hôn
nhẫn của Ðức Tổng!
Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Ðiền nhìn tôi thật lâu rồi đưa tay ra, tôi qùy
xuống hôn lên chiếc nhẫn giám mục của Ngài
lần đầu tiên trong đời. Tôi cố dằn
cơn xúc động nhưng tự dưng mắt tôi
rưng rưng và nghẹn ngào nói với Ngài: -Thưa
Ðức Tổng, được Ðức Tổng dành cho
nhiều sự ưu ái trong bao nhiêu năm qua là một
điều vô cùng vinh dự cho một người thầy
giáo nhỏ bé ở xứ Cần Thơ xa xưa và con xin
Ðức Tổng nhận nơi đây lòng biết ơn chân
thành của con. Con chỉ
biết cầu chúc cho Ðức Tổng được
nhiều sức khoẻ và hồng ân của Thiên Chúa
để hoàn thành sứ mạng của Giáo Hội giao phó
trong những ngày khó khăn sắp tới...
Ðó là lần cuối tôi gặp Ðức
Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền. Tôi viết bài này
theo lời yêu cầu của một số bạn bè và
cựu học sinh của tôi ở Cần Thơ vì tất
cả chúng tôi, mọi người ai ai cũng đều
kính mến vị giám mục tiên khởi của giáo
phận Cần Thơ, một con người mà tất
cả mọi người dân Cần Thơ không phân
biệt tôn giáo đều yêu mến và kính trọng.
Tôi viết bài này với những hoài
niệm vô cùng trân qúy về một thời xưa cũ cách
đây đúng nưả thế kỷ, tình cờ may
mắn được quen biết với một
người "lao động" đạp xe ba bánh,
một người "lao động" làm thợ
hồ ở Tây Ðô rồi sau đó trở thành một
vị giám mục, rồi tổng giám mục của Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam. Ông đã sống trọn với
châm ngôn của Dòng Tiểu Ðệ mà ông gọi là "Dòng hèn
mọn", đó là sự nghèo khó, sự thanh khiết và
sự vâng lời.
Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Ðiền đã sống trọn cuộc đời với
sự nghèo khó, sống với sự thanh khiết và
sống với sự vâng lời đối với Giáo
Hội.
Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Ðiền đã từ giã cõi đời trong sự nghèo khó,
từ giã cõi đời trong sự thanh khiết của
một bậc chân tu và đã từ giã cõi đời trong
sự vâng lời và đã hoàn thành sứ mạng mà Giáo
Hội đã giao phó: vị Chủ Chăn phải sống
chết với Con Chiên.
Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Ðiền đã từng tuyên bố rằng "Là giám mục
Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghiã
Cộng sản, nhưng người Cộng sản
Việt Nam cũng là người anh em của tôi,"
nhưng Cộng sản Việt Nam sau năm 1975 lại
không xem Ngài là anh em, họ xem Ngài là kẻ "phản
động" và hậu qủa là Ngài đã bị họ
đầu độc chết tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 6
năm 1988.
Ngài đã được Ðức Giáo Hoàng
John Paul II phong tặng danh hiệu "Vị Giám Mục Uy
Dũng."
Ðối với Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Ðức Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền không những
chỉ là một vị Giám Mục Uy Dũng mà còn là một
vị Thánh Tử Ðạo.
Ðối với người Miền Nam,
Ðức Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền lại là một
vị Anh Hùng vì với tư cách là một công dân Việt
Nam, Ngài đã không kể đến sự an nguy của
bản thân khi dám công khai đứng lên chống lại
bạo quyền Cộng sản để đòi hỏi cho
toàn thể nhân dân Miền Nam Việt Nam có được
quyền Tự Do Tín Ngưỡng và Quyền Làm
Người.
Trần
Ðông Phong
California, Mùa Thu 2008
|