Ánh-sáng đến trong
thế-gian
(Ga. 1,9)
Bắt đầu Phúc-âm thứ tư,
thánh Gio-an Tông-đồ đã suy niệm
về Mầu-nhiệm Nhập-thể; còn được
gọi là Mầu-thiệm "Thiên Chúa làm người
như chúng ta". Ngài ở giữa chúng ta.
Để triển khai và trình bày
Mầu Nhiệm này, tác giảđã sử dụng ba hình
tượng: Thứ nhất là Ánh-sáng. Thứ
hai là Thế-gian. Thứ ba là Đến.
Hình
tượng có nghĩa là một hình ảnh chất
chứa nhiều ý nghĩa khác nhau. Ngoài ý nghĩa thông thường, bề mặt,
chúng ta có thể dần dần khai mở nhiều ý
nghĩa khác nằm ở chiều sâu, ở bên dưới.
Chẳng hạn khi chúng ta đi
thăm viếng bảo tàng viện Le Louvre ở Paris, nhìn
từ ngoài, chúng ta sẽ thấy được những
ngôi nhà cổ kính và rộng rãi... Và khi đi vào bên trong,
từ phòng này qua phòng khác, từ tầng dưới leo lên tầng trên, từ tòa nhà phía đông,
qua tòa nhà phía tây... chúng ta sẽ ngỡ ngàng, ngơ ngác
trước bao nhiêu kho tàng đang được xếp
đặt, trưng bày ở trong đó.
Trong
những lần đầu, khi đứng trước
những kỳ công nghệ thuật như bức họa
La Joconde, với nụ cười đầy bí nhiệm,
chúng ta chưa rung cảm và thưởng thức
được gì cả. Nhưng nếu có
một người quen biết hướng dẫn,
chỉ vẽ, giải thích, chúng ta cảm thấy hứng
thú vì đã học hỏi, hiểu biết được
rất nhiều điều về nếp sống, nghệ
thuật, đạo đức của người Pháp, qua
các thời đại khác nhau. Nhờ
đó con người và cuộc đời chúng ta giầu
có thêm lên.
Khi suy niệm Phúc-âm của Thánh Gio-an hay là những cuốn sách khác trong bộ
Kinh Thánh Tân và Cựu-ước chúng ta cũng có thể khám
phá được một kho tàng Đức-tin sâu thẳm
và phong phú. Đối với kho tàng Đức Tin cũng
như đối với bảo tàng viện Le Louvre, chúng ta
cần có người hướng dẫn cho chúng ta. Trong địa hạt Đức-tin, người
ấy không là ai khác ngoài Hội-thánh và những người
"đồng cảm với Hội-thánh" có nghĩa
là cùng thở Thần-khí như Hội-thánh. Cùng yêu thương như Hội-thánh và đang yêu
thương vị hôn phu của mình là Đức Kitô.
Trong tinh thần ấy, tôi muốn
khảo sát ba hình tượng trên đây.
1- Hình
Tượng thế gian
Thánh Gio-an
đồng hóa thế gian với "bóng tối"(6).
Ánh sáng chiếu soi trong bóng
tối
Thế gian đã nhờ
Ngài mà có
Người
đã đến nhà mình.
Cũng trong hai câu này, thánh
Gio-an ghi thêm:
Thế gian không nhận biết Người
Người nhà chẳng
chịu đón nhận
Khi sắp xếp những yếu
tố lại với nhau, chúng ta nhận thấy những
điều sau đây:
Một: Thế
gian được Thánh Gioan nói tới là tất cả
những ai đang có mặt trên quả đất này.
Hai:
Tất cả mọi người đượcThiên Chúa
tạo nên. Không có cánh tay Người
tạo dựng, chúng ta chỉ là hư không, không là gì
cả.
Ba: Không
những chỉ tạo dựng mà thôi, Thiên Chúa tiếp
tục dưỡng nuôi, thương yêu và dạy dỗ
chúng ta. Mặt trời cần thiết
cho sự sống trên quả đất này thế nào,
thì Tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần thiết cho sự
sống còn của chúng ta như vậy. Một cây hoa không
có ánh sáng mặt trời làm sao có thể sống, lớn lên
và phát triển?
Bốn: Mỗi
lần chúng ta không chấp nhận quan hệ yêu
thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, chính
chúng ta biến mình thành tác giả và nguyên nhân tạo nên bóng
tối cho đời mình.
Chính chúng ta quyết định
đóng kín lòng, khép lại mọi cánh cửa, không cho phép
Tình Yêu của Thiên Chúa soi sáng, hướng dẫn, nâng
đỡ đùm bọc chúng ta. Tuy còn sống
về mặt thể chất, chúng ta đã chết về
mặt thánh đức và tâm linh.
Trong dụ ngôn về người Cha
Nhân Hậu (7), quan hệ giữa Thiên Chúa với chúng ta
được xác định là quan hệ máu mủ cha con.
Trên bình diện nhân loại, cha yêu con thế nào, thì Thiên Chúa
cũng yêu thương đùm bọc chúng ta như vậy.
Còn hơn thế nữa, Ngài ban cho chúng ta Thánh Thần
của Ngài (8). Nghĩa là chính Sự Sống
và Tình Yêu của Ngài, để hai cha con cùng nhau chia sẻ
một sự sống duy nhất.
Năm: vào
cuối Phúc âm thứ tư thánh Gioan còn rõ ràng dứt khoát
hơn nữa: Thế gian là những ai giết chết
Thiên Chúa (9). Như người con đưa tay
sát hại cha mình. Và khi tình cha con đã thoái hóa và suy
đồi như vậy, thì tình huynh đệ anh em cũng không còn. Thay vào
đó là bạo động, hận thù, chiến
tranh...hủy diệt.
Cơ hồ đứa con hoang
đàng, phóng đãng đã bỏ nhà ra đi, chúng ta giết
chết Thiên Chúa trong lòng mình. Và khi làm như
vậy, chúng ta thuộc về thế gian. Chúng ta ở trong bóng tối. Chúng
ta là thế gian. Là bóng tối. Chúng ta đã chết. Không còn
sống cuộc sống của Thiên Chúa. Chúng ta phủ nhận mọi quan hệ giữa
chúng ta với Ngài.
Trái
lại, khi chúng ta đón nhận Ngài, tự khắc chúng ta
ở trong Ánh-sáng. Chúng ta có quan hệ cha con với Ngài. Ánh-sáng soi chiếu cuộc đời chúng ta.
2- Hình
tượng ánh sáng
Trên núi
thánh Xi-na-y, Mai-sen không thể nào nhìn thẳng vào mặt
của Thiên Chúa. Một con người phàm trần
với bao nhiêu khuyết điểm và tồn tại, không
thể nào chịu đựng được ánh sáng Thánh-đức
chói chang phát xuất từ Ngài.
Vừa rồi đây vào ngày 11.8.1999,
khi mặt trời đã hoàn toàn bị mặt trăng che
lấp, chúng ta đã phải mang một loại kiếng
đen đặc biệt, mới có thể nhìn lên và
chịu đựng được một vài tia sáng còn lại của mặt trời.
Làm sao con người có thể nhìn
thẳng mặt trời, nhất là khi mặt trời
ấy là Đấng tạo dựng nên toàn thể vũ
trụ, mặt trời, trăng sao?
Trong Cựu-ước cũng như
Tân-ước, mỗi lần Thiên Chúa hiện hình với
ai, tất cả mọi người có mặt đều
kinh hoàng sụp lạy như tiên tri Esaia, ba Tông đồ
Phê-rô, Gio-an, và Gia-cô-bê, khi họ được đem lên
Núi Thánh.
Để có thể hiểu rõ phần
nào tại sao thánh Gio-an đã gọi Thiên
Chúa là Ánh-sáng, chúng ta hãy trở lại với Mai-sen. Chính
vị này đã hỏi: Ngài tên Ngài là gì, chúng tôi phải
gọi Ngài thế nà? Ngài đã trả lời: Ta là Ta.
Hẳn
thực, con người không thể sử dụng một
tên nào trong ngôn ngữ loài người để gọi
Ngài. Không một danh hiệu nào trong trời đất có
thể diễn tả trọn vẹn bản chất hay căn cước đích thực của
Thiên Chúa. Ngài là tất cả cho chúng ta... Ngài
là Cha. Là Mẹ. Khí thở, trời xanh.
Là dòng suối. Là
nước uống. Là của ăn.
Là toàn thể vũ trụ.
Nói tóm
lại, Ngài là tất cả những gì làm nên chúng ta trong quá
khứ. Và Ngài vẫn là tất
cả cho chúng ta trong tương lai, trong ngày tận cùng của
cuộc sống làm người này. Ngài là khởi
thủy và đồng thời cũng là chung
cuộc, nghĩa là điểm hẹn cuối cùng.
Để diễn tả một nội dung bao la và
trọng đại như vậy, trong sách
Khải-huyền, thánh Gio-an đã dùng
chữ đầu và chữ cuối trong bản vần
Hy-lạp: Thiên Chúa là Đấng Alpha và Omega.
Để diễn tả một
phần nào "Thiên Chúa là ai, như thế nào, làm gì, làm cách
nào..." Thánh Gio-an đi lại con
đường của tiên tri là sử dụng hình
tượng. Đây là những ngón tay
chỉ cho chúng ta tìm thấy mặt trăng đang ở
về phương hướng nào. Nhưng ngón tay ấy không thể đụng tới
mặt trăng.
Chính trong tinh thần và lăng
kính này, chúng ta đã suy niệm câu nói "Thiên Chúa là
Ánh-sáng": Bởi vì Ngài là nguồn gốc ban sự
sống cho chúng ta. Đồng thời Ngài là
quê hương, là nhà, để chúng ta trở về, sau
cuộc hành trình trên mọi nẻo đường của
dương thế.
Ngoài "Ánh-sáng", thánh Gio-an còn thích dùng một hình tượng khác:
"Thiên Chúa là Tinh Yêu". Ngài đã yêu
thương, gọi mời chúng ta làm nghĩa tử
của Ngài từ trước vô cùng, từ ngày trời
đất chưa được tạo thành. Với
tư cách là nghĩa tử, chúng ta có quyền gọi Ngài là
Cha, và có quyền thừa hưởng gia tài là chính cuộc
sống tràn đầy yêu
thươngvà hạnh
phúc của Ngài. Cũng trong chiều hướng và ý
nghĩa này, theo ngôn ngữ và giáo lý của thánh Phao-lô, Thiên
Chúa là gia nghiệp cho những ai mở mắt nhận
biết và đón tiếp Hồng phúc và Ơn sủng
của Ngài.
3- Hình
tượng đến
Hình tượng thứ ba trong câu nói
của Thánh Gio-an là Đến.
Theo sách Sáng-thế, Thiên Chúa đã
đến thăm viếng nhiều lần hai vị
tổ phụ của chúng ta là ông Adong và bà Evà, trước
khi họ phạm tội ăn trái
cấm.
Ngài đến ở giữa dân
của Ngài là Israel, sau khi giải phóng họ khỏi ách nô
lệ của Ai Cập. Ngài đã hiện hình, dạy
dỗ các tiên tri và sai họ đại diện Ngài,
đến với dân Ngài, dưới nhiều hình thức
khác nhau.
Lần cuối cùng, khi thời gian
đến thời kỳ viên mãn, chính Con Ngài là Ngôi Lời
đã nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria.
Trong ba
mươi năm, Thiên Chúa đã "làm người"
hoàn toàn như chúng ta. Ngài ở giữa chúng
ta.
Chỗ nào Ngài đi qua, chỗ ấy
người nghèo được chúc phúc, người mù
được sáng mắt, người chết sống
lại... Để lãnh nhận bao nhiêu hồng phúc phát
xuất từ Thiên Chúa, Đức Kitô chỉ đặt một
câu hỏi: Con có tin vào Tình Yêu của Thiên Chúa không? Thầy
đây là Tình Yêu của Thiên Chúa, bằng xương
bằng thịt, đang đứng trước mặt
con.
Người mù đã đáp lại
"con tin", tức thì người mù đã sáng mắt.
Người bại liệt đã
đáp lại "con tin". Nhờ đó ông
ta có khả năng đứng dậy, vác lấy chiếc
giường, trên đó mình đã nằm, và lên
đường về nhà.
Trước
khi làm cho La-da-rô sống lại, Đức Kitô cũng
đã hỏi hai chị em Mat-ta và Maria có tin hay không. Sau khi
họ tuyên xưng Đức Tin, Ngài đã gọi La-da-rô ra
khỏi mồ, mặc dù ông đã được an táng trong vòng ba ngày và bắt đầu toát
mùi tử khí.
Để
mở đường cho Ngôi Lời, Con Thiên Chúa
đến thế gian, như Ánh Sáng chiếu soi bóng
tối, Mẹ Maria đã tin vào Tình-yêu của Thiên Chúa. Và nhờ Đức-tin của Mẹ, Thiên Chúa
đã làm người với máu huyết của Mẹ.
Nếu
chúng ta có Đức-tin vào Thiên Chúa Tình Thương,
giống như Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ có khả
năng đem "Ánh Sáng đến thế gian",
biến trời đất còn đầy chết chóc và
hận thù, thành Trời Mới Đất Mới. Biến
con người còn tràn đầy bóng tối vì tội
lỗi "giết Cha" thành "tác phẩm tuyệt
vời của Thiên Chúa".
Tin vào Thiên Chúa là can đảm, sẵn sàng thưa
với Ngài "xin vâng" giống như Mẹ Maria.
Ma-ra-na-tan! Con sẵn sàng. Ngài có thể
đến. Xin Ngài hãy đến!
(Trích “Trong
Đức Ki Tô “của GS Nguyễn văn Thành)
|