PHAOLÔ, NHÀ
CÁCH MẠNG
Trao đổi với ĐGM Penna, chuyên gia Tân
Ứớc Đại Học Latran
Từ
ngày 26.08.2008, những cuộc hội họp, hội
nghị, hội thảo và cử hành phụng vụ liên
tiếp nhau trong tất cả các thánh đường trên
thế giới để kỷ niệm 2.000 năm ngày sinh
Thánh Phaolô Tông Đồ, Vị thừa sai vĩ đại
nhất mọi thời. Hãng tin Zenit đã trao đổi
với ĐGM Romano Penna, giáo sư Đại học Latran
ở Roma, một trong những chuyên gia lớn nhất
về cuộc đời và sự nghiệp của Phaolô
Xứ Tarse. Ngài đã cống hiến suốt cuộc
đời của một nhà nghiên cứu, giáo sư
đại học, cho Vị Tông Đồ Dân Ngoại, xúât
bản nhiều tác phẩm nỗi tiếng vì khoa học
chặt chẽ, về sự bay bỗng, tất cả
được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ
cuốn hút và hiện đại.
Các
chú giải Kinh Thánh của Ngài về những “thư” khác
nhau của Vị Tông Đồ, đặc biệt là ba
tập sách về “Thư Rôma” và khảo luận “AND của
Kitô giáo” được coi là những công trình căn
bản. Với tuổi 70 của Ngài, những nhà Kinh Thánh
trên thế giới quyết định dành một cuốn
sách viết về Ngài. Đó là một tác phẩm dày 500
trang có tựa đề: ”Tân
Ước: các nền thần học trong đối
thoại văn hoá. Được viết để tôn
vinh ĐGM Romano Penna nhân ngày sinh thứ 70 của Ngài”.
ZENIT (H). Thưa giáo sư, người ta có biết chính xác
ngày sinh của Thánh Phaolô chăng?
ROMANO PENNA (Đ). Không!
Năm Thánh Phaolô mà chúng ta cử hành năm nay
được dựa trên một giả thuyết
truyền thống theo đó Thánh Phaolô có lẽ sinh ra
khoảng trước sau năm 8 sau CN. Nhưng đó
chỉ là một giả thuyết. Hơn nữa, ngay chính
ngày sinh của Chúa Kitô, người ta cũng không biết
chính xác kia mà! Theo tôi, Thánh Phaolô cũng trạc tuổi Chúa
Giêsu.
(H). Ngài sinh ở đâu?
(Đ). Ở Tarse,
thủ phủ xứ Cilicie, cha mẹ là người
Biệt Phái gốc Do Thái. Sách « Công Vụ » [các Tông
Đồ] cho biết Ngài là một công dân La Mã và mang
quốc tịch La Mã từ khi sinh. Vì thế bên cạnh cái
tên Do Thái Saul của Ngài còn có cái tên Phaolô tiếng La Mã.
(H). Gia đình Ngài có phải là một gia đình khá
gỉa không?
(Đ). Trong một
lá thư, Thánh Phaolô nói Ngài kiếm ăn bằng việc làm
lều. Nói chung, con cái thì thường học nghề
của cha chúng. Người ta giả định thân
phụ của Thánh Phaolô cũng làm nghề nầy. Đó là
một nghề thông dụng, phổ thông, cho phép kiếm
sống và chu cấp cho gia đình, không có gì khác ngoài.
(H). Ngài đã được giáo dục theo loại nào
trong gia đình Ngài?
(Đ) Cha mẹ của
Thánh Phaolô là những người Do Thái sống xa quê
hương nói cách khác, họ thuộc những
người Do Thái vì muốn trốn tránh các cuộc bách
hại hoặc vì những lý do khác, đã di cư xa quê cha
đất tổ nhưng vẫn trung thành với các
truyền thống cha ông. Phaolô được cắt bì.
Ngài được nuôi dạy trong sự tuân giữ
Luật Môsê. Nhưng Tarse vốn là một thành phố
“quốc tế”, cho nên khi ra khỏi nhà, Ngài hít thở ngay
không khí mang đặc tính Hy Lạp và mở ra cho nhiều
nền văn hoá khác nhau. Trong gia đình, Ngài nói tiếng
Hê-brơ và tiếng Aram, nhưng khi ở bên ngoài, thì nói
tiếng Hy Lạp. Vì thế Ngài lớn lên với một
não trạng cởi mở, ít ra là cho đến năm 12 –
13 tuổi!
(H). Sau đó thì
sao ?
(Đ). Ít nhiều
ở độ tuổi nầy, Ngài đi sang Giêrusalem, toàn
tâm học hỏi nghiên cứu Kinh Torah bên cạnh giáo sĩ
Gamaliel Tiền, một giáo sĩ nổi danh. Kể từ
đó Ngài chỉ còn quan tâm duy nhất đến luật
lệ Do Thái và văn hoá Israel.
(H). Trong những gì Thánh Phaoô hoặc những
người cùng thời với Ngài viết, người ta
có thấy được những liên tưởng hoặc
những yếu tố có ích cho phép làm cho chúng ta hiểu
bề ngoài Ngài giống gì chăng?
(Đ). Chúng ta có
một mô tả hình thể Thánh Phaolô thường hay quay
đi quay lại. Người ta nói Ngài nhỏ con, mập,
chân vòng kiềng, hai hàng lông mày giao nhau, nhưng giống
như một thiên thần. Song mô tả nầy có niên
đại từ cuối thế kỷ thứ hai. Việc
mô tả bằng hình tượng truyền thống
giới trình bày Ngài dưới những nét một
người rậm râu, hói đầu, theo hình ảnh mà
người ta thường gán cho các triết gia sau thế
kỷ thứ ba. Trong thư thứ hai gửi tín hữu
Côrintô, Thánh Phaolô nói « không biết ăn nói », một
số người cho là Ngài cà lăm. Trong thư gửi tín
hữu Galata, Ngài nói: « nếu có thể, hẳn anh em
đã móc mắt hiến cho tôi » [x. Gl 3,15. BTGH]. Một
số người cho là Thánh Nhân có vấn đề về
thị lực.
Riêng tôi thì cho
rằng những câu nói nầy phải được
hiểu trong một nghĩa ẩn dụ. Chúng ta biết
rằng Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn trong
cuộc đời: những canh chừng, những chay
tịnh, chịu rét giá, ba lần đắm tàu, hàng ngàn cây
số trai qua bằng chân không, bị ném đá, năm
lần bị người Do Thái đánh đòn, ba lần
bị người La Mã đánh roi, bị cầm tù trong
những thời gian dài. Tất cả những điều
đó cho ta nghĩ rằng Ngài có một thể hình
đặc biệt, một ý chí sắt đá và một
khả năng thích nghi phi thường.
(H). Có thể nói về tính
tình của Ngài qua các thư Ngài viết chăng?
(Đ). Sự việc đã từng là kẻ bách
hại hăng say chống lại cộng đoàn Kitô giáo
như thế, trước khi xảy ra những chuyện
trên đường Damas, đã nói lên nhiểu điều
về tính tính cuồng nhiệt của Ngài. Ngài biết rõ
rằng khuôn mặt của Chúa Kitô có thể gây nên khủng
hoảng cho một số yếu tố cấu thành
Đạo Do Thái, và Ngài đã bách hại các Kitô-hữu
một cách mạnh mẽ và cứng rắn. Người ta
có thể so sánh Ngài với một « taliban » thời
nay. Thế rồi xảy ra vụ Damas và có sự thay
đổi lớn lao.
Ngài
tiếp tục có một tính cách mạnh mẽ, có thể
phát biểu dưới những giọng rất dữ
dội, cứng rắn, nhưng Ngài thường xen kẻ
bằng những ngữ điệu xúc động,
hiền từ, đễ thương, gần như
yểu điệu. Chính Ngài tự so sánh mình với một
người cha, nhưng cả với một người
mẹ nữa. Tâm lý của Ngài là một tâm lý phức
tạp, có nhiều mặt, rất phong phú. Trong thư
gửi tín hữu Roma, Ngài nói rõ ràng phải đón nhận
mọi người, hoà hợp với mọi người,
chấp nhận cả những kẻ có suy nghĩ khác mình:
có chủ nghĩa yêu hoà bình, một ý nghĩa sự đón
tiếp, tương quan nhân nhượng, thật sự
mang tính chất Phúc Âm.
(H). Thánh Phaolô đã làm gì sau cuộc trở lại trên
đường Damas?
(Đ). Ngài đã
trải qua ba năm cuộc đời suy niệm trong hoang
mạc, sau đó Ngài đi Giêrusalem để gặp cac tông
đồ và cộng đoàn Kitô giáo, đoạn Ngài đi
Antiôkia nơi Ngài chính thức nhận lệnh truyền bá
Phúc Âm. Antiôkia thuộc Syri khi ấy là một thành phố
rất quan trọng trong lịch sử Kitô giáo, vì chính trong
thành phố nầy mà Phúc Âm đã được loan báo
lần đầu tiên cho dân ngoại. Chúa Giêsu chưa bao
giờ giảng dạy dân ngoại. Người chỉ
dạy dỗ duy nhất dân Do Thái, cũng giống như
các tông đồ lúc ban đầu. Chính ở Antiôkia đã
có bước ngoặt lớn nầy. Và chính từ nơi
ấy mà Thánh Phaolô đã thực hiện hành trình tông
đồ đầu tiên của Ngài.
(H). Người ta nói
rằng, trong chuyến hành trình đầu tiên nầy, Ngài
đã tranh luận với các tông đồ…Có đúng như
thế chăng ?
(Đ). Đã có những
bất đồng ý kiến. Thánh Phaolô có một cá tính
rất mạnh mẽ. Và Chúa Giêsu đã trao phó cho Ngài
một sứ mệnh đặc biệt, sứ mệnh
loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Đó là một kế
hoạch không tưởng đối với người Do
Thái lúc bấy giờ. Và đối với các tông đồ
cũng vậy. Họ cho rằng Chúa Giêsu đã đến
vì dân Israel, trong khi Thánh Phaolô lại muốn rao giảng cho
dân ngoại.
Hơn thế
nữa, Thánh Phaolô ở trong một tình thế tế
nhị. Các Kitô hữu nhìn Ngài với sự nghi ngờ,
nhớ lại sự hăng say của Ngài khi bách hại
họ. Người Do Thái thì coi Ngài như một tên làm
phản, đã bỏ đạo của cha ông. Ngài hết
sức vất vả để làm cho các Kitô hữu tiên
khởi chấp nhận ý kiến của mình. Nhất là
niềm xác tín rằng Chúa Kitô đã đến không phải
chỉ cho người Do Thái, mà là cho hết thảy
mọi người. Và rằng các người dân ngoại,
để trở thành những môn đệ của Chúa
Giêsu không buộc phải gập mình trước mọi
quyết định của luật Môsê. Ngay cả trong các
tông đồ, mọi người không chia sẻ các ý kiến của Ngài. Bấy
giờ Ngài nỗi giận và gọi họ là « anh em
giả dối ». Ngài rất bực bội với Thánh
Phêrô, người lúc đầu đã tán thành các ý
tưởng của Ngài, nhưng sau đó lại rút lui và
Thánh Phaolô đã công khai quở trách Thánh Phêrô.
Dù
thế nào đi nữa, Ngài cũng vẫn tiếp tục
tin vào trực giác Ngài đã có trong lần gặp gỡ bí
ẩn với Chúa Kitô trên đường Damas. Ngài cảm
thấy một cách hết sức mãnh liệt trong Ngài
sự cấp thiết phải rao giảng Phúc Âm cho dân
ngoại. Sau hành trình đầu tiên nầy, Ngài còn thực
hiện hai chuyến khác nữa, thành lập rất
nhiều Giáo Hội. Tất
cả các tông đồ cuối cùng cũng đã tán thành các
trực giác của Ngài, hiểu rằng Chúa Giêsu đã
đến để cứu độ mọi
người, chứ không phải chỉ có dân Do Thái.
(H). Đâu là các yếu
tố chủ chốt trong lời giảng dạy của
Thánh Phaolô ?
(Đ).
Sự tự do của luật nằm ở trong tim Thánh
Phaolô và ở trung tâm luồng tư tưởng Thánh Phaolô.
Thánh Phaolô giảng dạy rằng những gì đáng kể
trước hết trong tương quan với Thiên Chúa,
không phải là luân lý, mà là ân sủng của chính Thiên Chúa,
trong Chúa Giêsu Kitô. Tôi trở nên công chính trước mặt
Thiên Chúa không phải những gì tôi làm nên “tôi”, mà vì những
gì Thiên Chúa đã làm cho tôi trong Chúa Giêsu Kitô. Và đức tin
là sự chấp nhận quà tặng hồng ân nầy
được ban cho tôi.
Lời
giảng dạy nầy của Thánh Phaolô đi ngược
với quan niệm cho rằng
chính “tôi” mới xây dựng nên sự công chính của
tôi, sự thánh thiện của tôi trước nhan thánh Chúa.
Tôi xây dựng nó qua việc tuân giữ luân lý, cung cách hành
xử, đạo đức và tuân giữ các điều
răn. Quan niệm nầy là một lập trường
rất phổ biến đặt luân lý lên hàng đầu.
Nhưng, do được hiểu theo nghĩa hẹp,
đây không phải là lập trường tốt.
Một câu nói của Luther, mà chúng ta có
thể chia sẻ, giải thích rõ ý niệm nầy: “Không
phải bằng việc thực hiện những
điều công chính mà chúng ta nên công chính. Nhưng nếu
chúng ta là người công chính, thì chúng ta làm những
điều công chính”. Nét luân lý
của hành động, trong quá trình hoạt
động, vì thế chỉ là thứ yếu so với
chiều kích của sự việc “là” đi trước và
là căn bản.
“Ở
trong Chúa Giêsu Kitô” và nhận đươc sự ân cần
yêu thương của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, không lệ
thuộc vào đời sống luân ý của tôi mà vì bởi
chính “tôi sống” “hữu thể trong Chúa Giêsu Kitô”, chắc
chắn sẽ đồng bộ với thực tại
tuyệt diệu nầy. Đó chính là điểm chủ
chốt và là yếu tố dẫn đừơng cho luồng
tư tưởng Thánh Phaolô.
Yếu
tố quan trọng thứ hai
trong tư tưởng Thánh Phaolô đụng đến “căn tính
Kitô giáo”, vốn được định nghĩa không
chỉ bằng những phạm trù “pháp lý” như là sự
công chính, người công chính, sự công chính hoá, mà còn
bằng những phạm trù “bí nhiệm” hoặc “có tính
chất dự phần”. Nói cách khác, Kitô hữu là một
người ở trước mặt Chúa Giêsu Kitô với
đức tin, nhưng “dự phần “ vào chính Chúa Kitô và
sống “trong” Chúa Giêsu Kitô.
Giữa
người Kitô hữu và Chúa Giêsu xảy ra một sự
tham dự liên cá nhân thật sự. Người Kitô-hữu
“sống’ trong Chúa Giêsu Kitô và Chúa Giêsu Kitô sống trong Kitô
hữu.
Và cách thức tồn
tại nầy dẫn chúng ta đến điểm căn
bản thứ ba trong lời giảng dạy của Thánh
Phaolô: “chiều kích cộng đoàn”, điều mà chính Thánh
Phaolô gọi là Giáo Hội. Với Ngài, từ ngữ “Giáo
Hội” không hề có một ý nghĩa trừu
tượng, nhưng luôn liên quan đến một cộng
đoàn cụ thể, ở trong một nơi chốn
cụ thể. Có Giáo Hội Côrintô, Giáo Hội Thêxalônica, Giáo
Hội Philipphê, v..v…Ngày nay chúng ta đem cho “Giáo Hội”
một nghĩa “Công giáo”, nghĩa là hoàn vũ. Nhưng
sự hình thành ý niệm nầy đến sau Thánh Phaolô.
Thánh Phaolô đã dùng
từ Giáo Hội để chì mỗi một cộng
đoàn và Ngài đã cho từ ngữ nầy một nghĩa
rộng “sự chia sẻ cộng đoàn” đặc
biệt. Nơi các Kitô hữu gặp gỡ nhau là mái nhà, nhà
của một tư nhân, nơi họ tụ họp nhau
để dùng bửa, để đọc và giải thích
các đoạn sách thánh. Như vậy, cộng đoàn
hội thánh có một khuôn khổ gia đình. Và chính trong
bối cảnh cách thức sống nầy mà đã hình thành
và phát triển định nghĩa Giáo Hội theo Thánh
Phaolô: Giáo Hội “thân thể của Chúa Kitô”. Ý niệm phi
thường nầy chỉ thuộc về Phaolô mà thôi.
Người ta có thể tranh luận sau đó về ý
nghĩa của câu theo đó “Giáo Hội là Thân Thể
của Chúa Kitô”.
Người
ta tự hỏi phải chăng qua đó Ngài muốn nói
rằng Giáo Hội là một thân thể trong ý nghĩa xã
hội của từ ngữ nầy, thuộc về Chúa
Kitô, hay là chính Chúa Kitô hiện diện trong thân thể
của Người, trong một hình hài thân thể, trong
một chiều kích không phải xã hội, mà là cá thể,
huyền nhiệm. Tôi cho rằng chính ý niệm thứ hai
nầy mới là ý niệm hay đúng. Và luôn nằm trong nhãn
giới sự chia sẻ cộng đoàn, Giáo Hội
với Thánh Phaolô hoàn toàn “có tính chất bình đẳng”.
Ngài giảng dạy rằng trong Chúa Kitô không còn Do Thái, Hy
Lạp, không còn nô lệ hoặc người tự do, không
còn đàn ông hay đàn bà. Bên trong cộng đoàn nầy
cũng có những nhiệm vụ thật sự, nhưng
đó không phải là những nhiệm vụ tư tế
theo nghĩa phẩm trật mà người ta biết
đến sau đó. Có những người chủ
toạ, những người được giao trách
nhiệm hướng dẫn, tổ chức việc tụ
họp. Ngoài ra không có gì khác.
Ghi lại: Renzo Allegri. Zenit 01.12.2008
BTGH chuyển ngữ.
|