III. SAU CÁC LẦN HIỆN RA
LUXIA ĐI HỌC
Ồ, con lại viết lộn xộn rồi, con đã bỏ một ít điều lẽ ra con phải viết. Nhưng con viết như Đức Cha đã dạy con: viết những điều con còn nhớ và viết cách đơn sơ. Đó là cách con muốn viết mà không tính toán thứ tự hoặc văn vẻ. Như vậy đức vâng phục của con hoàn hảo hơn và vui lòng Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ hơn.
Bây giờ con xin trở lại chuyện nhà cha mẹ con. Thưa Đức Cha, con phải thưa rằng, má con đã bán đàn chiên, chỉ giữ lại 3 con. Chúng con dẫn nó đi theo khi chúng con ra đồng. khi ở nhà, chúng con nuôi chúng trong hàng giậu. Má con cho con đi học chữ. Nếu còn giờ rỗi, má con dạy con dệt vải hay khâu vá. Như vậy má con giữ con ở nhà, khỏi mất thời giờ đi tìm con. Một hôm trời đẹp, người ta rủ các chị con và các thiếu nữ khác đi hái nho cho một người giàu có tên là Pe de Cao (32). Má con đồng ý cho các chị con đi với điều kiện dẫn con đi theo.
LUXIA VÀ CHA SỞ
Con rước lễ vỡ lòng lúc 6 tuổi. Từ đó con dọn mình lại để rước lễ trọng thể mỗi năm. Năm này, cha sở đã bắt đầu dậy giáo lý cho trẻ dọn mình rước lễ trọng thể. Nhưng má bảo con năm nay nghỉ học giáo lý, theo các chị đi hái nho. Vì thế, hết lớp học, các trẻ khác lên phòng cha sở học giáo lý, còn con đi thẳng về nhà tiếp tục công việc may vá hay thêu dệt. Cha sở không hiểu rõ lý do con vắng lớp giáo lý. Một hôm bà chị ngài cho trẻ gọi con trở lại gặp cha sở.
Tưởng rằng có người đến tra hỏi, con cáo lỗi lấy lý do má bảo con phải về nhà ngay. Rồi không nói thêm nữa, con vù chạy như điên, qua mấy đám vườn cây dầu tìm một chỗ trốn cho yên thân. Nào ngờ đâu lần này con phải trả một giá rất đắt! Vì mấy ngày sau, nhiều linh mục các nơi về xứ hát lễ. Cha sở cho gọi con lên, bắt đứng trước các linh mục. Ngài khiển trách con vì không đi học giáo lý, vì không vâng lời chị ngài. Ngài nói một lúc lâu, kể ra hết những đốn hèn của con.
Sau cùng, con không hiểu tại sao, một linh mục đứng ra biện hộ cho con, và bảo có lẽ vì má con không cho con đi học giáo lý. Nhưng cha sở đáp lại ngay: "Má nó ư? Má nó là một vị thánh. Còn con này rồi chúng ta sẽ thấy nó ra sao!"
Linh mục cựu hạt trưởng Torres Novas dịu dàng hỏi con vì sao không đi học giáo lý. Con thưa với ngài đó là quyết định của má con. Cha sở không tin, cho gọi chị Gloria đang dọn nhà thờ tới, hỏi cho ra sự thật. Sau khi biết rõ câu chuyện như con đã trình bày, cha sở kết luận: "Ừ được! hoặc là con nhỏ đi học giáo lý trong những ngày còn lại, sau đó xưng tội với cha, rồi rước lễ trọng thể với các trẻ khác, hoặc nó sẽ không được rước lễ trong xứ nữa!"
Nghe nói thế chị con thưa rằng, năm hôm trước ngày rước lễ trọng thể của các trẻ em, con sẽ phải đi hái nho với các chị con. rồi chị xin cha sở cho con đến xưng tội với ngài vào một ngày khác trước khi chúng con đi. Cha sở nhất định không chịu.
Chúng con ra về kể lại cho má con nghe. Má con thân hành đến xin cha sở giải tội và cho con rước lễ vào một ngày khác. Cha sở không nghe. Má con phải đổi ý bảo anh con, sau ngày rước lễ trọng thể, sẽ dẫn con đến với các chị con. riêng con, mỗi lần nghĩ đến việc xưng tội với cha sở con sợ đến đổ mồ hôi lạnh.
Trước ngày rước lễ trọng thể, cha sở bảo các trẻ phải đến nhà thờ xưng tội. Con cũng đến. Vào nhà thờ, con trông thấy nhiều linh mục ngồi toà, linh mục ngồi trong tòa giải tội cuối nhà thờ là cha Cruz từ Lisbone đến. Con đã có dịp hầu chuyện ngài và con quý mến ngài lắm.
Giữa lòng nhà thờ, là tòa giải tội của cha sở. Ngài ngồi trong đó, để cửa mở hầu có thể quan sát mọi việc xẩy ra. Con tự nhủ mình: "Mình đến xưng tội với cha Cruz, rồi hỏi cha điều mình phải làm. Sau đó sẽ đến với cha sở". Cha Cruz tiếp con thật dịu dàng, và sau khi nghe con xưng tội, cha khuyên răn và giải tội cho con. Ngài cũng bảo con, nếu không cần, thì không buộc phải đến với cha sở nữa. Cha sở không thể cấm con rước lễ vì không đến với ngài. Nghe cha nói, con cảm thấy nhẹ người! Con làm việc đền tội, rồi ra về ngay kẻo người ta lại gọi con. Hôm sau, con đến nhà thờ với bộ đồ trắng và hơi ngớp sợ sẽ bị từ chối không được rước lễ. Nhưng sau nghi lễ, cha sở gọi con lại và bảo: "Con thiếu đức vâng lời, đi xưng tội với cha khác, không xưng tội với ngài. Dầu vậy con cũng không thoát khỏi ngài!"
Từ đó, cha sở mỗi ngày mỗi tỏ thái độ bất mãn và nghi ngờ về những biến cố Đức Mẹ hiện ra. Thế rồi một hôm ngài bỏ xứ ra đi. Tiếng đồn cho rằng cha sở ra đi vì con (33), ngài không muốn lãnh trách nhiệm về các biến cố đã xẩy ra. Vì ngài là một linh mục nhiệt thành và được giáo dân quý mến, nên việc ngài ra đi làm con hết sức đau đớn. Mấy bà đạo đức, mỗi khi gặp con đều trách móc, chửi mắng và xỉa xói con. Đôi khi họ còn tát vào mặt hay giơ chân đá con.
TÌNH BẠN THÔNG CẢM VÀ HY SINH
Giaxinta và Phanxicô không gặp những cảnh trớ trêu như con, vì chú cô nhất định không cho ai đụng đến hai em. Nhưng các em se lòng, ứa nước mắt nhìn thấy con đau khổ, bị giằn vặt tứ bề!
Một hôm Giaxinta nói với con: "Ai có thể cho em có ba má giống như ba má chị? Như vậy người ta có thể đánh em và em sẽ có nhiều hy sinh dâng cho Chúa!" Tuy nhiên, Giaxinta đã biết lợi dụng nhiều dịp để hy sinh. Thỉnh thoảng chúng con có thói quen hy sinh nhịn uống nước suốt 9 ngày hay một tháng (trừ trước sau bữa ăn) để dâng cho Chúa. Chúng con đã thi hành việc hy sinh này suốt tháng Tám, đầy oi bức. Một hôm từ Cova da Iria về, sau khi đã lần chuỗi và cầu nguyện, chúng con tới gần bờ ao nước đọng. Giaxinta bảo:
- Em khát nước quá! Em đau đầu nữa! Em uống mấy ngụm nước này!
- Đừng, nước ấy bẩn lắm, má em không cho uống nước dơ vậy đâu. Tốt hơn chạy vào nhà bà Maria dos Anjos xin một ly nhỏ.
- Không, em không uống nước ngon, em uống nước này. Thay vì dâng cho Chúa Giêsu sự hy sinh chịu khát, em dâng cho Ngài việc hy sinh uống nước dơ bẩn.
Quả thực, nước này dơ, vì người ta giặt quần áo ở đó. Súc vật tới đó uống nước và lội ngang qua, nên má con bảo con cái đừng uống nước này.
Nhiều lần Giaxinta nói:
- Chắc chắn Chúa Giêsu hài lòng về những hy sinh của chúng ta, bởi vì em khát nước quá rồi, em khát nước lắm, nhưng em không muốn uống. Em muốn hy sinh để mến Chúa.
Hôm khác đang chơi trước cửa nhà chú cô, nhiều người từ đâu đến,, con và Phanxicô vội chạy vào phòng, chui trốn dưới gầm giường, mỗi đứa một chỗ. Giaxinta bảo:
- Em không chạy, em dâng hy sinh này cho Chúa.
Những người này đến hỏi em, rồi chờ gặp con. Khi người ta đi rồi, con và Phanxicô chui ra khỏi gầm giường, con hỏi Giaxinta:
- Khi người ta hỏi chị và Phanxicô trốn ở đâu, em trả lời làm sao?
- Em chả nói gì hết, em đứng yên, cúi đầu nhìn đất và không nói gì cả.. Em luôn luôn làm như vậy khi em không muốn nói sự thật. Em không muốn nói dối, vì nói dối là một tội.
Giaxinta thường làm như vậy, và hỏi em cũng bằng vô ích thôi, ai hỏi câu nào, em cũng chẳng đáp. Khi không thể trốn được, chúng con thường chấp nhận như một hy sinh dâng cho Chúa.
Một bữa kia chúng con đang ngồi dưới bóng hai cây vả cạnh đường gần nhà hai em. Khi vừa bắt đầu chơi, Phanxicô thoáng thấy mấy bà đang tiến về phía chúng con, nên em báo động cho chúng con. Lập tức, chúng con trèo lên cây vả, ẩn mình trong đám lá, mấy bà không tìm ra chỗ chúng con núp. Khi các bà đi khỏi rồi, chúng con vội vàng trụt xuống, chạy vù đi ẩn trong ruộng ngô.
Nhanh chân chạy trốn, cũng là điều cha sở hay khiển trách chúng con. Ngài phiền trách nhất là tội chúng con lẩn trốn các linh mục. Mà thật, ngài có lý. vì lẽ các linh mục đặt những câu hỏi tỉ mỉ và hóc búa, khó trả lời. Mỗi khi phải đứng trước một linh mục, chúng con đều chuẩn bị dâng lên Thiên Chúa một hy sinh lớn lao.
CHÍNH QUYỀN CHỐNG ĐỐI
Chính quyền chưa chịu thua. Họ không muốn câu chuyện Đức Mẹ hiện ra phổ biến khắp nơi, và không muốn dân chúng tụ tập về Cova da Iria. Vì thế khi dân trong làng dựng hai cột trụ làm một vọng môn và đặt hai cây đèn ở đó, chính quyền cho xe tới nhổ hai cột trụ, phá vọng môn, cưa cây sồi Đức Mẹ đã hiện ra, rồi chất lên xe chở đi. Việc làm của chính quyền đồn ra nhanh chóng, ngay ban sáng. Con ra tận nơi xem sự thể thật hư thế nào. May quá, thay vì chặt cây sồi Đức Mẹ đã hiện ra ở trên, lính của chính phủ đã cưa cây sồi bên cạnh. Vui mừng quá, con quì xuống tạ ơn Chúa, xin lỗi Đức Mẹ cho họ và cầu nguyện cho họ ơn trở lại.
Ngày 13 tháng Năm, con không nhớ rõ là năm 1918 hay 1919 (34), ngay từ sáng sớm một đoàn kị binh đã đến Fatima, ngăn cản dân chúng không cho tập trung về Cova da Iria. Có người bảo con phải dè chừng kẻo thiệt mạng. Con không để ý tới chuyện đó, con đến nhà thờ dự lễ, rước lễ rồi lại về nhà. Con đi qua nhiều chặng đường đầy ngựa và lính. Nhưng không ai hỏi con câu nào. Không rõ họ có nhận ra con hay không.
Sau trưa, mặc dầu nhiều tin đồn lính chính phủ tới giải tán không cho dân chúng hội nhau cầu nguyện ở Cova da Iria, con vẫn bình tĩnh ra đi. Nhiều bà đạo đức đi theo con. Vừa gần tới nơi, chúng con thấy hai kị binh từ đàng xa phi tới thật nhanh. Khi tới gần chúng con, họ dùng roi đánh ngựa đuổi chúng con trở về. Các bà sợ chạy tán loạn, còn trơ lại mình con trước hai người kị binh. Họ hỏi tên con. Con nói với họ ngay. Họ hỏi có phải con là một trong ba em đã "trông thấy Đức Bà". Con trả lời "phải". Họ ra lệnh cho con đi vào giữa đường, họ cỡi ngựa đi hai bên về hướng Fatima.
Khi con theo họ tới gần ao nước đọng, bà Maria dos Anjos nom thấy con. Bà òa lên khóc, thương cho số phận hẩm hiu của con. Một ông lính hỏi:" Bà ấy có phải là má mày không?" Con bảo "Không". Họ tiếp tục dẫn con đi về Aljustrel.
Khi tới đầu xóm, thấy một hố nhỏ, họ bảo con đứng lại. Họ nói với nhau:
- Đây có hố sẵn, lại có cát nữa, chi bằng chém đầu con nhỏ vứt xuống hố này là hết mọi chuyện.
Nghe vậy con tưởng đời con đã tới số. Tuy nhiên con bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Họ suy nghĩ một lát rồi lại nói với nhau:
- Không được, chúng ta không có phép giết con nhỏ.
Nói xong họ bảo con tiếp tục đi. Con qua xóm, đi về nhà ba má. Nhiều người trong xóm đứng ở cửa nhìn ra, kẻ diễu cười, người chế nhạo, người khác nói tội nghiệp cho số phận của con. Tới nhà, hai ông lính bảo con đi tìm ba má. Ba má con đi vắng. Mấy ông lính xuống ngựa vào nhà lục soát xem ba má con có trốn đâu đó không. Thấy không có ai trong nhà, họ ra lệnh cho con, từ nay ban ngày không được ra khỏi nhà. Rồi cả hai lên ngựa đi ra khỏi xóm. Tối đến, dân chúng cho biết lính đã rút lui, con và mấy bà đạo đức lại ra Cova da Iria lần chuỗi. Theo như nhiều người kể lại, khi con bị hai người lính kèm đi như tù nhân, họ đã báo cho má con hay, nhưng má con trả lời:
- Nếu thật là nó nom thấy Đức Mẹ, thì Đức Mẹ bênh vực nó, bằng nó nói dối thì nó đáng bị phạt. Má con thản nhiên không lo lắng gì hết.
Vài người sẽ hỏi con:" Khi lính đến thì hai bạn nhỏ của con ở đâu?" Con không biết. Con không nhớ gì về các em lúc bấy giờ. Có lẽ khi nghe tin tức ở ngoài, ba má các em không cho các em ra khỏi nhà."
MÁ LUXIA BỆNH NẶNG
Chúa hài lòng nhìn thấy con chịu đau khổ. Chính Ngài dọn sẵn cho con một chén cay đắng khác cho con uống. Sau đó mấy hôm má con ngã bệnh nặng, và một hôm, má con như lâm cơn hấp hối. Chúng con đứng đủ mặt chung quanh giường má, xin phép lành và hôn tay má đang hấp hối. Trông thấy con, má tỉnh hơn một chút, giơ tay quàng lấy cổ con và kêu lên:"Con gái mẹ thật tội nghiệp, mất má rồi con sẽ ra sao? Mẹ sắp chết với một trái tim tan nát vì chuyện của con!" Mẹ than van cay đắng, ôm chặt lấy cổ con hơn nữa.
Chị cả con dùng sức lôi con ra khỏi tay má, dẫn con vào bếp và cấm con không được vào phòng má nữa. Chị bảo:"Má chết trong đau khổ, vì những đau khổ mà em đã gây ra". Con quì gối, đầu gục xuống chiếc ghế, lòng buồn vô tận. Chưa bao giờ con cảm thấy lòng con tê tái đến thế. Con dâng lên Chúa lễ hy sinh này. Một lúc sau khi không còn hy vọng má sống nữa, hai chị lớn chạy ra tìm con và bảo:"Luxia, nếu quả thật Đức Mẹ hiện ra với em, em hãy chạy ra Cova da Iria, xin Đức Mẹ chữa má lành. Em có thể hứa với Đức Mẹ điều gì tùy ý em. Các chị sẽ thi hành. Khi ấy các chị sẽ tin Đức Mẹ nữa."
Không ngần ngừ một giây, con vâng lời ra đi. Để không ai nom thấy, con men theo đường nhỏ, vừa đi vừa lần hạt. Con cầu xin với Đức Mẹ. Con khóc lóc tha thiết. Con trở về nhà với hy vọng Mẹ trên trời của con sẽ ban sức khỏe cho má con dưới đất. Khi con về tới nhà, má con tỉnh táo hơn, và ba ngày sau, má con có thể tiếp tục công việc nội trợ.
Con hứa với Đức Mẹ, nếu Đức Mẹ nhận lời con xin, con sẽ cùng với các chị con tới Cova da Iria lần hạt chín ngày liên tiếp, và chúng con sẽ quì xuống, đi bằng hai đầu gối, từ trên đường cao tới tận cây sồi xanh. Ngày thứ chín, chúng con sẽ dẫn tới Cova da Iria chín trẻ em nghèo và sau đó dọn đãi chúng một bữa ăn. Chúng con đã hoàn tất lời con hứa, có cả má con cùng đi. Má bảo:
- Lạ thật, sao Đức Mẹ đã chữa má nhưng má còn lưỡng lự không muốn tin. Má không biết như vậy nghĩa là gì?
CHA LUXIA QUA ĐỜI
Chúa nhân lành đã ban cho con niềm an ủi này. Nhưng chẳng bao lâu, Ngài lại gõ cửa lòng con và trao cho con một chén đắng khác. Ba con là một người vạm vỡ và khỏe mạnh. Ba thường nói, chưa bao giờ biết đau là gì. Vậy mà chỉ không đầy 24 tiếng đồng hồ, chứng bệnh sốt xuất huyết đã đem ba con về đời sau. (35) Đối với con cái chết của ba là một đau đớn vô bờ. Chỉ còn mình ba luôn thương yêu và chiều chuộng con, chỉ mình ba bênh vực con. Con vào phòng kêu lên:
- Lạy Chúa, Lạy Chúa, con không bao giờ nghĩ rằng Chúa sẽ dành cho con nhiều đau khổ như thế. Nhưng con xin đón nhận hết vì yêu mến Chúa, để đền tạ bao tội lỗi người ta xúc phạm đến Trái Tim Vô nhiễm Nguyên tội Đức Mẹ, để cầu cho Đức Thánh Cha và cho các tội nhân trở lại.
CÁC EM HỌ LUXIA BỆNH NẶNG
Thời gian đó, Giaxinta và Phanxicô cũng ngã bệnh nặng (36). Nhiều lần Giaxinta nói với con:
- Em cảm thấy trong ngực đau đớn lắm. Nhưng em không nói gì với má em. Em muốn chịu đau đớn vì Chúa để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Maria, để cầu cho Đức Thánh Cha và cho tội nhân trở lại.
Một buổi sáng con đến thăm em, em hỏi con:
- Đêm nay chị dâng cho Chúa bao nhiêu hy sinh?
- Ba, chị thức dậy ba lần đọc kinh Thiên Thần đã dậy.
- Còn em, em dâng cho Chúa nhiều lắm, nhiều lắm. Em không biết là bao nhiêu, vì em đau đớn lắm mà em không hở môi phàn nàn.
Phanxicô nói ít, nhưng thừơng em làm tất cả những gì em thấy chúng con làm. Họa lắm em mới có một sáng kiến. Trong thời gian bị bệnh, em chịu đựng nhẫn nại và anh hùng, không phàn nàn một tiếng. Một hôm con hỏi em:
- Phanxicô, em đau lắm phải không?
- Phải, nhưng em chịu hết vì yêu mến Chúa và Đức Mẹ.
Lần khác em đưa cho con "khúc giây hãm mình" và bảo:
- Chị cầm lấy và giấu đi, đừng để cho má em thấy. Bây giờ em không còn sức mang nó nữa.
Em uống mọi thứ thuốc cô con bảo uống. Em không từ chối một thứ gì. Và em sống như vậy cho tới lúc được Chúa gọi về trời. Ngày trước khi em chết (37), em nói với con và Giaxinta:
- Em về trời em sẽ cầu nguyện xin Chúa và Đức Mẹ cũng đem chị và Giaxinta về trời rất sớm nữa.
Con nghĩ, con đã tả nỗi đau khổ chia ly này giữa chúng con khi viết về Giaxinta, nên con không nhắc lại ở đây nữa. Bấy giờ Giaxinta vẫn còn đau và bệnh mỗi ngày một nặng thêm. Dầu vậy, em vẫn tiếp tục làm nhiều việc hãm mình anh hùng mà trước con chưa nói tới.
Một hôm cô đem cho em một ly sữa và một chùm nho và bảo:
- Giaxinta sữa và nho cho con đây. Nếu con không thích uống sữa, không sao, con ăn nho đi.
- Thưa má, con không ăn nho, con chỉ uống sữa thôi.
Thấy Giaxinta trả lời mau mắn, cô con hài lòng. Nhưng sau đó Giaxinta nói với con:
- Em thèm ăn nho lắm, uống sữa là một cố gắng lớn, nhưng em làm như vậy để dâng cho Chúa một hy sinh.
Một buổi sáng, con đến thăm em, thấy nét mặt tái mét, con đoán em đau đớn lắm. Con hỏi em và em trả lời:
- Đêm nay em đau đớn lắm, nhưng em dâng cho Chúa một hy sinh. Em cứ nằm yên không trở mình , cho dù em không thể nhắm mắt được một phút.
Vào lúc khác, em nói với con:
- Khi có một mình, em xuống khỏi giường để đọc lời cầu nguyện Thiên thần dạy. Nhưng bây giờ em không thể cúi đầu chạm đất được nữa, em chỉ quì gối thôi.
Một hôm con có dịp thưa chuyện với cha Đại diện. Ngài hỏi con về Giaxinta lúc này ra sao. Con thưa ngài điều con nghĩ về tình trạng của em bấy giờ. Em nói với con là không thể gục đầu xuống đất để cầu nguyện. Cha Đại diện bảo con nói lại với em, em không phải xuống khỏi giường để cầu nguyện, em có thể nằm mà cầu nguyện, mà đọc lời cầu khi em không thấy mệt mỏi. Con đã nói lại với em như vậy ngay khi gặp lại em. Em nói:
- Như vậy Chúa có bằng lòng không?
- Chúa bằng lòng. Chúa muốn chúng ta làm điều cha Đại diện chỉ bảo.
- Được rồi. Em không xuống khỏi giường nữa.
Con hay đến hang Cabeco cầu nguyện. Và vì biết Giaxinta thích hoa, nên mỗi lần trở về, con hái ít hoa hồng gói lại đem về cho em.
- Này, hoa ở Cabeco chị hái cho em đấy.
Em cầm lấy hoa và đôi khi nước mắt lăn trên má. Em nói:
- Em sẽ không còn trở lại đó nữa, cả Valinhos, và Cova da Iria. Em nhớ hai nơi đó lắm.
- Chả sao, vì em về trời. Em được nhìn thấy Chúa và Đức Mẹ.
- Chắc chắn.
Rồi em bẻ từng cánh hoa, đếm từng cánh một.
Mấy ngày sau khi ngã bệnh, em trao cho con một khúc giây hãm mình. Em nói:
- Giữ lấy cho em. Em sợ má nom thấy. Khi nào em khỏe hơn, em sẽ mang lại nó.
Giây lưng của em có ba nút, và con thấy nút nào cũng vấy máu. Con giấu kỹ khúc giây ấy cho tới ngày con bỏ hẳn gia đình. Không biết cất làm sao, con đem đốt cả hai giây của Phanxicô và Giaxinta.
SỨC KHỎE LUXIA YẾU KÉM
Nhiều người từ xa đến thăm chúng con, thấy con xanh xao, ốm yếu, đã xin với má cho con đến nhà họ đổi khí ít lâu. Má con đồng ý. Người ta đưa con đi nơi này nơi khác.
Nhưng ở mọi nơi, không phải mọi người đều qúi mến con đâu. Nhiều người ca ngợi con, coi con như một vị thánh, nhiều người khác lại nhiếc mắng con, gọi con là đứa giả hình, ảo tưởng, và mụ phù thủy. Chúa nhân từ tra muối vào nước để nước khỏi hư. Cũng vậy, nhờ Chúa quan phòng, con có thể qua lửa mà không bị phỏng. Chúa không để con bị đục khoét bởi con sâu khoe khoang và tự đắc. Trong những dịp đi như thế, con quen tự nhủ:" Mọi người đều sai lầm. Con không phải là thánh như người ta tưởng, con cũng không phải là đứa nói dối như người ta bảo. Chỉ mình Thiên Chúa biết con là cái gì."
Về nhà, con đến thăm Giaxinta. Em bảo con:
- Nè, đừng đi thêm nữa. Em cực vì chị lắm. Từ khi chị đi, em không hề nói với ai. Với người khác, em không biết nói gì.
Đến lúc Giaxinta phải đi Lisbon. Con từ giã em. Con cảm thấy một nỗi buồn đè nặng tâm hồn. Con ở lại một mình. Chỉ trong một thời gian vắn, Chúa đã cất về trời người cha qúi mến của con, Phanxicô, và từ bây giờ, con sẽ không còn gặp lại Giaxinta trên đời này nữa. Mỗi khi có thể, con chạy đến Cabeco náu mình trong hốc đá khóc một mình với Chúa, cho vơi nỗi đau buồn. Khi xuống triền giốc, mọi cái đều làm con nhớ đến hai em yêu qúi của con. Trên những hòn đá kia chúng con từng ngồi, những bông hoa ấy từ nay con không hái nữa vì không còn ai để tặng, và kià Valinhos, nơi chúng con đã nếm thử mọi dịu ngọt của Thiên đàng. Con như không còn nhận được thực tại nữa, nửa tỉnh nửa mơ, một hôm con đến nhà cô con, bước vào phòng Giaxinta, con lên tiếng gọi em. Têrêsa, chị của em thấy con nông nỗi như vậy, chắn lối con và nhắc cho con hay rằng Giaxinta không còn ở đấy nữa.
Sau đó ít lâu, có tin em đã được bay về trời.(38) Người ta đem xác em về Vila Nova de Ourem. Cô con dẫn con tới đó, gần xác con gái của cô với hy vọng giải khuây cho con một phần nào. Thực ra mỗi ngày con một cảm thấy buồn chán thêm. Mỗi khi thấy cửa nghĩa trang mở, con vào ngồi hàng giờ cầu nguyện bên mộ Phanxicô và mộ ba con.
Nhờ ơn Chúa, mấy tháng sau, má con quyết định đi Lisbon và cho con đi theo (39). Nhờ sự giới thiệu của cha Formigao, một bà đạo đức tiếp đón chúng con trong nhà bà và sẵn sàng trả tiền lưu xá cho con nếu con muốn ở lại Lisbon học chữ. Má con và con đón nhận với lòng biết ơn. sự giúp đỡ rộng rãi của bà. Quí danh bà là Assuncao Avelear. Theo thầy thuốc khám bệnh cho biết, má con cần phải mổ ngực và xương sống. Nhưng họ không chịu trách nhiệm vì tim má con yếu quá. Má con trở về nhà, để con lại cho bà Avelar săn sóc. Khi mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng và vào ngày lưu xá đã ấn định, người ta đưa tin rằng chính phủ biết con ở Lisbon và đang tầm nã con. Người ta lại đem con về Santanrem, trốn trong nhà cha Formigao. Mấy hôm trốn ở đây, con không được phép đi lễ. Sau cùng bà chị của cha Formigao đưa con về lại gia đình và hứa sẽ lo liệu cho con vào lưu xá của các nữ tu Dôrotê bên Tây ban nha. Khi nào xếp đặt xong xuôi, người ta sẽ đến tìn con. Mọi chuyện xảy ra làm con bớt đau buồn và thoáng trí phần nào.
LẦN ĐẦU TIÊN LUXIA GẶP ĐỨC GIÁM MỤC
Vào kỳ này, Đức Cha chính thức nhận Địa phận Leiria. Chúa nhân từ lo lắng cho đàn chiên đã từ lâu không có người chăn (40). Không thiếu những người mượn danh Đức Cha dọa nạt con. Người ta bảo Đức Cha biết hết mọi chuyện. Ngài đoán được hết những cái gì xảy ra trong lương tâm người khác, ngài sẽ khám phá ra mọi mánh khóe và giả dối của con. Con không sợ hãi chút nào, trái lại, con rất ước ao được gặp và hầu chuyện Đức Cha. Con tự nhủ: Nếu quả thật Đức Cha biết hết mọi chuyện, ắt ngài sẽ thấy rằng con nói sự thực.
Thế rồi một bà đạo đức ở Leiria sẵn sàng đến đón con đi gặp Đức Cha. Con vui mừng nhận lời đề nghị. Con sung sướng chờ đợi ngày được gặp Đức Cha. Sau cùng ngày ấy đã tới, con đi theo bà vào Tòa Giám mục. Chúng con được chỉ ngồi đợi ở phòng khách.
Vài phút sau, linh mục thư ký của Đức Cha (41), vui vẻ nói chuyện với bà Gilda đi với con và hỏi con mấy câu. Vì đã xưng tội với ngài hai lần nên con nhận ra ngài, và câu chuyện diễn biến tốt đẹp.
Tiếp đến cha Marques dos Santos (42) với áo giầy trang trọng đi vào. Lần đầu tiên con thấy một linh mục ăn mặc chững chạc như vậy. Con chăm chú nhìn ngài. Ngài bắt đầu đặt ra cả một chuỗi câu hỏi và con tưởng không bao giờ hết. Thỉnh thoảng ngài mỉm cười chế diễu những câu con trả lời. Thấy ngài hỏi con nhiều quá, con sợ sẽ không được gặp Đức Cha. Sau cùng cha thư ký của Đức Cha trở lại và bảo bà Gilda:" Khi Đức Cha ra, bà phải cáo lỗi và ra ngoài, vì Đức Cha muốn nói chuyện riêng với Luxia." Nghe như vậy, con hớn hở vui mừng, tự nhủ,"Vì Đức Cha biết hết mọi điều, ngài sẽ không đặt nhiều câu hỏi, lại chỉ một mình ngài với con, sướng biết bao!"
Đức Cha tới, bà Gilda cúi chào lễ phép và rút lui. Con sung sướng một mình ở lại hầu chuyện Đức Cha. Thưa Đức Cha, con không viết lại buổi hầu chuyện ấy, vì Đức Cha nhớ rõ hơn con.
Thưa Đức Cha, quả thật, khi con thấy Đức Cha tiếp đón con cách bao dung, không hỏi con một tí gì có vẻ tò mò hay vô ích, mà chỉ làm vì ích lợi cho linh hồn con, sẵn sàng đảm nhiệm lấy một con chiên nhỏ bé và đáng thương mà Chúa vừa trao phó cho Đức Cha, con càng thâm tín rằng Đức Cha đã biết mọi chuyện rồi. Những điều Đức Cha buộc con phải giữ vừa dễ dàng với con, vừa hợp với bản tính tự nhiên của con:" Giữ hoàn toàn bí mật những điều Đức Cha dạy con và cố sống tốt mãi." Con từ biệt Đức Cha, ghi tâm điều Đức Cha dạy cho tới ngày má con đồng ý cho Đức Cha đem con đi.
GIÃ TỪ FATIMA
Sau cùng ngày con ra đi đã ấn định (trong quãng từ 16-18.6.1921). Ngày trước khi ra đi, trái tim con nghẹn ngào vì xúc động và nuối tiếc! Con đi từ giã tất cả những nơi quen thuộc: Hang đá Cabeco, Valinhos, nhà thờ xứ, nơi Chúa nhân lành bắt đầu công trình từ ái của Ngài trong con, và nghĩa trang, nơi đặt xác ba con và Phanxico thân mến mà con không bao giờ quên.
Con từ giã giếng nước, bấy giờ ánh sáng vàng của trăng muộn chiếu xuống làm tăng mầu ảm đạm. Chính nơi bờ giếng, con đã ngồi hàng giờ trong đêm khuya, nhìn ngắm trời sao lấp lánh, hay những buổi hừng đông chói lọi và những buổi hoàng hôn diệu huyền. Đôi khi tâm trí con như tan biến vào cảnh thơ mộng với những hạt sương trong phủ kín ngọn đồi và lấp lánh dưới ánh sáng đẹp ban mai của mặt trời, hoặc ban chiều, khi tuyết tan rữa còn đọng lại trên cành thông. Tất cả đều nhắc con nghĩ đến muôn vẻ đẹp trên Thiên đàng.
Sáng hôm sau, không từ giã một ai (43), từ hai giờ sáng, con đã theo má và ông Mamiel Correia, một người thợ nghèo, kín đáo lên đường đi về Leiria. Chúng con đi qua Cova da Iria để từ giã lần cuối cùng đám rẫy hồng phúc. Hôm ấy, lần cuối cùng con lần hạt Mân côi ở đó. Ra đi, con cứ ngoái cổ lại nhìn từ biệt Cova da Iria. Quãng 9 giờ sáng, chúng con đã tới Leiria. Người đầu tiên tiếp đón chúng con là bà Philomênê Miranda, sau này là mẹ đỡ đầu cho con chịu Phép Thêm sức. Chính Đức Cha nhờ bà đưa chúng con đi Porto. Tầu chạy lúc 2 giờ rưỡi trưa. Tại ga, đôi mắt đẫm lệ, con ôm hôn má con lần cuối cùng. Ôi bao là thương mến. Tầu chuyển bánh, con mang đi với một trái tim ngụp lặn trong buồn bã và đầy vời vợi những kỷ niệm mà con không thể nào quên được.
LỜI CUỐI
Thưa Đức Cha, con tin rằng, con vừa hái trong mảnh vườn bé nhỏ của con bông hoa đẹp nhất, quả cây dịu ngọt nhất, và bây giờ đem đặt cả hai vào bàn tay từ ái của Thiên Chúa nhân lành mà Đức Cha là Đại diện. Con xin Chúa làm cho hoa và quả ấy trổ sinh mãi thành mùa trái sung mãn "các linh hồn được hưởng đời sống vĩnh cửu". Bởi vì đức vâng lời khiêm tốn của thụ tạo thấp hèn nhất làm đẹp lòng Thiên Chúa nhân lành.
Để kết thúc, con xin mượn lời của Đấng mà Thiên Chúa, theo lòng thương xót vô biên, đã ban cho con như người Mẹ, Đấng phù hộ và gương mẫu vẹn toàn, cũng là lời con đã mượn để bắt đầu công việc Đức Cha dậy:" Này con là nữ tì của Chúa, chớ gì Chúa còn tiếp tục sử dụng con theo Ý Ngài muốn."
HỒI KÝ PHỤ THÊM VỀ GIAXINTA
Tái bút: Con quên chưa nói khi Giaxinta đi nhà thương ở Vila Nova de Ourém và nhà thương ở Lisbon, em biết là em sẽ không được chữa khỏi nhưng chỉ để chịu đau khổ thôi. Nhiều ngày trước khi người ta nói với em về việc có thể sẽ đi nhà thương Vila Nova de Ourém, em đã nói:
- Đức Mẹ muốn em đi hai nhà thương, không phải để được chữa bệnh nhưng để đau khổ hơn vì tình yêu Chúa và vì các linh hồn.
Con không biết chính lời Đức Mẹ nói thế nào vì chỉ hiện ra với riêng mình em thôi, và con cũng chẳng hỏi nữa. Con tự giới hạn chỉ nghe những gì mà tùy dịp em nói riêng với con. Ở đây con cố tránh nhắc lại những gì con đã thưa Đức Cha trước để tránh cho tập ghi khỏi dài quá.
TÀI LÔI CUỐN CỦA LUXIA
Từ bản ghi này, đôi lúc có vẻ như dân làng con không ai tỏ ra thương mến và dịu dàng với con hết. Không phải thế. Đoàn chiên được Chúa thương yêu chọn lựa đã tỏ ra thương mến con lắm. Đó là các trẻ em. Chúng chạy tới con, miệng reo hò vui nhộn và khi chúng biết con chăn chiên ở làng bên, cả nhóm thường đến với con và ở đó suốt ngày. Má con hay nói:
- Má không biết con có cái gì mà lôi cuốn tụi con nít thế! Chúng rầm rập chạy theo con như đi hội vậy!
Đối với con, con chả thấy gì hứng thú ở giữa những nhộn nhịp cả nên con gắng tránh xa chúng.
Cũng như thế xảy ra khi con ở với các bạn con ở Vilar và con dám nói việc đó cũng xảy ra cho con với chị em dòng. Một ít năm trước đây, Mẹ Giáo Tập, bây giờ là Mẹ Giám Tỉnh, bảo con:
- Con có một ảnh hưởng rất lớn trên các chị em khác đến nỗi nếu muốn con có thể gây được nhiều ảnh hưởng tốt đẹp!(44)
Và mới đây, Mẹ Bề Trên ở Ponteveda (45) cũng bảo con:
- Về một phương diện nào đó, con có trách nhiệm đối với Chúa về sự sốt sắng hay ơ hờ trong việc tuân giữ luật Chúa của chị em khác, vì sự sốt sắng tăng lên hay giảm đi trong giờ giải trí; hễ các chị em thấy con làm gì trong giờ đó họ cũng sẽ làm như thế. Có một số cái con mang ra giải trí giúp chị em hiểu hơn về luật dòng và làm họ quyết tâm tuân giữ cặn kẽ hơn.
Tại sao thế?
Con không biết. Có thể đó là một năng khiếu Chúa ban cho con và Chúa sẽ đòi con phải sinh lợi cho Chúa. Nếu con biết lợi dụng để buôn bán sinh lợi con có thể trả lại Chúa trăm, ngàn lần.
LUXIA CÓ TRÍ NHỚ TUYỆT
Có lẽ đôi người sẽ hỏi con: Làm sao con có thể nhớ được mọi chuyện thế? Con xin trả lời là con không biết tại sao nữa. Chúa nhân lành ban cho ai bao nhiêu tùy ý Ngài, Ngài đã cho con phần nhỏ mọn này - trí nhớ của con. Chỉ mình Ngài biết lý do tại sao. Ngoài ra, như con hiểu, còn có sự khác biệt giữa tự nhiên và siêu nhiên. "Khi chúng ta bàn về thụ tạo dù chúng ta đang nói nhưng chúng ta đã có sẵn khuynh hướng quên rồi, trong khi những sự siêu nhiên được khắc sâu vào tâm hồn, dù đó là những điều đang xem đang nghe, nên không dễ dàng quên ngay được.
GHI CHÚ HỒI KÝ II
1. Đây là lời thánh nữ Paula Frassinti, Sáng Lập dòng thánh Dorothêrô.
2. Dù hay viết sai chính tả, nhưng không giảm vẻ rõ ràng và thứ tự của bản ghi của Luxia.
3. Lc 1:48.
4. Tên của anh và các chị là: Maria dos Anjos, Têrêsa, Manuel, Gloria, Carolina và một trẻ sơ sinh chết khi còn bé.
5. Maria dos Anjos còn sống tại nhà cha mẹ chị.
6. Luxia sinh ngày 22 tháng 3 năm 1907.
7. Đây là một linh mục thánh thiện Cha CRUZ, S.J qua đời năm 1948.
8. Bức tượng đẹp này còn đứng ở phía phải nhà thờ giáo xứ.
9. Dù thời gian ba của Luxia nghiện rượu ông vẫn giữ đạo sốt sắng.
10. Sự thực này tỏ rõ sự đơn giản của Luxia và hơn thế sự chân thành trong mọi bản viết của chị.
11. Đây là năm 1915.
12. Hai người đầu còn sống. Cả ba đã được Cha Kondor phỏng vấn về điều được kể ở đây.
13. Sự hiện ra không rõ của Thiên Thần như sửa dọn tương lai cho chị.
14. Đây là hiện ra lần đầu của Thiên Thần trong ba lần hiện ra năm 1916.
15. Lần hiện ra thứ hai của Thiên Thần đó.
16. Lần hiện ra thứ ba và sau cùng của cùng một Thiên Thần.
17. Một số nhà thần học cảm thấy khó khăn với lời nguyện này có ít là hai phương diện:
a. Không cần phải hiểu sát nghĩa từng chữ.
b. Hình thức của lời cầu giống nhiều lời cầu nguyện phổ thông khác.
18. Phanxicô và Giaxinta chưa chịu lễ lần đầu, tuy nhiên người ta không coi đây như là bí tích Thánh Thể.
19. Cha Manuel Marques Ferreira qua đời tháng 1 năm 1945.
20. Người ta không nên phóng đại tư cách của ba chị. Dù ông thích rượu nhưng chưa đến độ nghiện ngập. Về bổn phận tôn giáo, ông đã không làm tròn ở giáo xứ Fatima một ít năm vì bất mãn với cha sở, nhưng ông vẫn làm bổn phận mùa phục sinh ở nhà thờ Vila Nova de Ourém.
21. Miền lân cận Fatima chừng 20 cây số.
22. Đây là tình trạng xáo trộn và bất lực hơn là thực hồ nghi. Những khó khăn trong gia đình và thái độ nghi ngờ của cha sở đã gây nên điều đó.
23. "Ngày hôm sau" là 11 tháng 8.
24. Tiến sĩ Manuel Nunes Formigão Junior, sau là tông đồ của Fatima, tới Cova nơi Đức Mẹ hiện ra vào ngày 13 tháng 9 chứ không phải tháng 8.
25. Việc Luxia nói hiện ra ở Valinhos vào ngày 15 là chính ngày rời Vila Nova de Ourém là lộn. Việc hiện ra vào Chúa Nhật tới là 19 tháng 8, 1917.
26. Tiến sĩ Carlos de Azevedo Mendes thăm ngày 8 tháng 9 năm 1917.
27. Bản phúc trình giá trị của cha sở và các cuộc phỏng vấn còn được giữ lại.
28. Tài liệu chứng tỏ việc cha sở chuyển nhiệm sở là do những khó khăn liên hệ đến việc trùng tu thánh đường.
29. Kinh sĩ Ferreira, linh mục địa phận Tores Novas, thú nhận cha là một trong những người chuyên chống đối.
30. Cha Faustino.
31. Nơi đây là Soutaria. Nhà của Senhora Emilia xây lại như nguyện đường.
32. Tài sản gần Torres Novas thuộc kỹ sư Mario Godinho ngày 13 tháng 7, 1917, ông chụp hình ba trẻ đầu tiên.
33. Đó không chắc là lý do. Có thể là do những khó khăn vì trùng tu thánh đường.
34. Ngày đó phải chăng là 13 tháng 5 năm 1920. Chị Luxia cũng không nhớ chắc.
35. Ba của chị Luxia qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1919.
36. Phanxicô và Giaxinta ngã bệnh đồng thời vào khoảng cuối tháng 10 năm 1918.
37. Phanxicô qua đời lúc 10 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1919.
38. Giaxinta qua đời ngày 20 tháng 2 năm 1920.
39. Chị Luxia ở Lisbon từ 7 tháng 7 tới 6 tháng 8. Sau đó chị đi Santarem và trở lại Aljustrel ngày 12 tháng 8.
40. Đức Cha mới về địa phận ngày 5 tháng 8 năm 1920.
41. Cha Augusto Maia qua đời 1959.
42. Đức ông Manuel Marques dos Santos 1892 - 1971.
43. Chị Luxia bỏ Aljustrel sáng sớm 16 tháng 6 năm 1921, đi Leiria rồi tới College ở Porto sáng hôm sau.
44. Mardre Maria do Carmo Corte Real.
45. Mardre Carmen Refojo, Mẹ Bề Trên ở Pontevedza 1933 - 1939.
|