31. Những Tiếng Nói Từ Mễ Du
§ Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
“Mẹ kêu mời các con hãy hối cải toàn diện... Hãy đặt cuộc đời các con trong tay Thiên Chúa...”
Tôi ngạc nhiên khi thấy vị linh mục chủ tế Thánh Lễ sáng hôm đó là một người bạn cũ. Nhân kỷ niệm 17 năm thụ phong linh mục của ngài, cha Jack Spaulding từ Scottdale, bang Arizona, được mời chủ tế Thánh Lễ. Cha Jack đã được lôi kéo đến Mễ Du nhiều lần, và vì những chuyến đi của chúng tôi thường trùng nhau, chúng tôi đã thành bạn bè. Cho nên, để đánh dấu dịp này, sau Thánh Lễ, chúng tôi mời ngài dùng cơm trưa.
Như thường lệ, cha Jack và tôi hay chơi cái trò đuổi bắt, (thay phiên kể cho nhau nghe những biến cố xảy ra từ cuộc gặp nhau lần trước), và cũng như thường lệ, ngài được can dự vào bằng những cách khác thường. Cùng với một linh mục khác ở vùng Phoenix tên là Dale Fushek, cha Jack đồng chủ trì một chương trình truyền hình dưới hình thức trò chuyện dành cho thanh thiếu niên, phát sóng trên toàn quốc qua hệ thống truyền hình Lời Hằng Sống EWTN (của Mẹ Angelica). Chính vì nhiệm vụ này, ngài và cha Fushek gần đây đã bay đi San Francisco, nơi Mẹ Têrêxa từ Calcutta đến để chứng giám lời tuyên thệ đầu tiên của vài nữ tu mới gia nhập dòng Bà. Hai linh mục đã cầu nguyện và nói chuyện với Mẹ Têrêxa trong gần nửa giờ.
- “Xin cha mô tả về Bà.” David vừa nói, vừa lấy máy ghi âm ra, khi chúng tôi ngồi trên một mô đất đầy cỏ dại, dưới bóng râm của lùm cây phía sau nhà thờ.
- “Được rồi! Tôi chỉ cao có 1 mét 67, thế mà bà đứng không tới vai tôi. Người bà thấp bé đến nỗi khi bước vào một căn phòng nào đó, người ta không để ý đến bà vào lúc đầu. Nhưng sau đó, thật nhanh, mọi người đã im lặng. Không một ai muốn để lỡ mất lời nào bà nói, và bà không cần lên giọng để nói. Như khi bà nói rằng trong một vụ phá thai có hai án mạng: một là đứa bé, và hai là lương tâm của người mẹ. Và cách duy nhất để chữa trị tệ nạn đó, ấy là bí tích hòa giải, vì quà tặng vĩ đại của bí tích này là cho phép chúng ta biết khởi sự tha thứ cho chính mình.”
- “Tôi hiểu ý cha muốn nói gì,” tôi đáp, “tôi thường ví Mẹ Têrêxa như một gương mẫu của điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành, nhờ các sứ điệp của Đức Maria ở Mễ Du này. Mẹ Têrêxa sống Phúc Âm sát theo nghĩa đen.”
Mẹ Têrêxa luôn là một nhân vật đặc biệt đối với tôi, tôi rất mừng được dịp học hỏi thêm về bà. “Điều gì làm cha nhớ về Mẹ nhất?”
- “Có một chuyện đã đánh động tôi thê thảm,” cha Jack vừa nói vừa cười lớn, “đó là Mẹ từ chối chúc lành cho tôi. Tất cả mọi người lúc ấy đều cúi đầu xuống, rồi Mẹ đặt tay trên đầu họ và chúc lành cho họ. Nhưng khi đến lượt tôi, Mẹ không đặt tay. Mẹ nói: “Cha là linh mục, cha mới là người chúc lành cho con.”
David hỏi: “Cha có làm không?”
- “Đương nhiên. Rồi Mẹ bảo: “Linh mục các ngài không hiểu mình quý giá như thế nào. Nhờ các ngài mà Chúa Giêsu hiện diện nơi đây. Các ngài mang Chúa đến cho chúng tôi trong Bí tích Thánh Thể.”
Tôi liền hỏi: “Cha có hỏi Mẹ Têrêxa xem Mẹ có nghĩ rằng Đức Mẹ đang hiện ra tại Mễ Du không?”
Cha Jack gật đầu: “Mẹ nói: “Tất nhiên Đức Mẹ đang hiện ra ở đấy!” Rồi Mẹ nói thêm: “Các bạn biết mà, đó là quê hương của tôi đấy!” Tôi quên bẵng quê quán Mẹ là Albani, hiện nay là một phần của Nam Tư. Và Mẹ còn nói: “Nhưng tôi sẽ không bao giờ tới đó, vì tôi có thể quấy rầy việc Thiên Chúa đang làm ở đấy.”
Mẹ Têrêsa Calcutta luôn giữ mốí liên hệ đậm đà với Mễ Du. Trên hình : Mẹ đang thăm hỏi cha Slavko.
Mẹ hơi buồn về việc đó. Mẹ nói: “Tôi có gởi một lá thư cho các thị nhân, để nhờ các em trao lại cho Đức Maria, xin Người ngự giá đến Calcutta.” Tôi đáp ngay: “À, thưa Mẹ, Đức Maria sẽ không đến đâu, vì Người đang sử dụng Mẹ ở đấy rồi...”, rồi chúng tôi tất cả cùng cười.
- “Cha thấy việc chủ tế Thánh Lễ hôm nay thế nào?”
- “Được cử hành Thánh Lễ ở đây làm cho tôi cảm thấy mình rất gần với quê trời rồi, cho đến khi Chúa tới đón tôi về hẳn nhà Ngài.”
Tôi gật đầu: “Điều đầu tiên tôi nghĩ khi đến đây là tôi đang ở ngưỡng cửa của thiên đàng.”
Cha Jack nhìn lên cây thập giá trên núi Krizevac phía sau chúng tôi. Ngài trầm ngâm: “Khi ở đây, các bạn bắt đầu hiểu thế nào là sống lưu đày. Người ta chỉ khao khát được về nhà khi chỉ còn cách nhà chút đỉnh. Khi đến đây, các bạn cứ tưởng tượng mình đang ở quê trời - nhưng điều này chỉ làm bạn khổ sở hơn khi phải quay về với quê trần thế.”
David gật đầu: “Cha đang mô tả vợ tôi đấy. Cô ấy nhớ nơi này quá sức, cô đọc bất cứ cái gì về Mễ Du mà cô vớ được.” Tôi gật đầu đồng ý, nhớ lại lần đầu phải rời xa nơi này - và mỗi lần sau đó - mình đã khổ sở thế nào.
Cha Jack mỉm cười: “Cô ấy đang khao khát thiên đàng đấy. Ở đây, cô đã chạm vào thiên đàng,” ngài ngừng lại một lát, “hoặc đúng hơn, thiên đàng đã chạm vào cô ấy.”
Tôi hỏi ngài có còn nhớ lần đầu thấy cảm kích khi nhận ra đây là một nơi đặc biệt của sự hòa giải và hối cải, ngài trả lời: “Ồ, dứt khoát là nhớ.”
Cha Jack ngẫm nghĩ một lát, rồi đăm đăm nhìn lên núi, nói tiếp: “Lần đầu tiên, tôi đã đến đây với một nhóm thanh thiếu niên. Chúng tôi bận rộn chăm sóc chúng nó đến nỗi không còn thời gian để thanh thản cầu nguyện và suy niệm, như các linh mục sở tại đã dặn. Rồi một chiều kia, khi đang trên đường từ nhà Vicka trở về nhà thờ, người bạn đồng hành của tôi đề nghị chúng tôi vừa đi vừa lần hạt. Chúng tôi đã làm như vậy, và trong lúc lần hạt ấy, lần đầu tiên, tôi đã kinh nghiệm thế nào là cầu nguyện sâu thẳm từ trái tim.”
Đột nhiên, ngài ứa nước mắt và tiếp tục nói qua tiếng thổn thức khe khẽ: “Đó là giây phút hối cải của tôi, sự hối cải chân thật của tôi.”
Tôi bồi hồi xao xuyến vì thấy một linh mục có những cảm xúc như vậy. Cha Jack nói cho chúng tôi nghe về một ơn soi sáng ngài đã nhận được hai năm trước đây, mà đến nay, ơn đó vẫn tác động ngài như mới xảy ra.
- “Này, tại sao chúng ta không đi thẳng tới nhà hàng chén một bữa...?” tôi nói vậy để làm dịu bầu không khí.
Khi chúng tôi đã an tọa trong một quán ăn nhỏ ngoài trời, cha Jack nói: “Anh biết đấy, có những linh mục không muốn đến đây, vì họ sợ phải hối cải. Họ là những người lo việc thiêng liêng theo chức nghiệp, nhưng không sống thiêng liêng nơi bản thân. Cuộc sống của họ bây giờ đang an nhàn, tiện nghi, họ sợ những gì đòi hỏi nơi họ và sợ không biết phải thay đổi thế nào.”
David nhìn lên ngọn núi nói: “Đôi khi người ta có thể giàu có bằng những gì khác hơn tiền bạc, tiện nghi, hay thói quen dễ chịu... Hôm qua, chúng tôi đã nói về chuyện đó, về chuyện hối cải là một cái gì hơn việc chỉ được tái sinh thôi. Nên thánh, cái đó là thế nào ?”
Cha Jack mỉm cười: “Hối cải là một cái gì rất riêng tư. Và ta không làm chỉ một lần là xong; nhưng là việc phải làm hằng ngày.” Ngài ngưng lại một lúc, “các anh biết không, ngay trước khi đi Italy, Marija nói với tôi: “Xin cha cầu nguyện cho con được lòng hối cải.”
Tôi la lên: “Marija ư ? Tôi tưởng là một ai khác...?”
Vị linh mục gật đầu: “Lúc ấy, tôi mới biết rằng cầu nguyện cho sự hối cải của nhau quan trọng đến mức nào. Đó là quà tặng cho chuyến đi ấy. Nhưng sau đó, tôi đã phải ngưng kể chuyện đó.” Ngài thở dài nói tiếp: “Vì người ta bắt đầu nói với tôi: “Cha ơi, nếu cha mà còn cần cải hối, thì chúng con kể như tiêu rồi!”
Chúng tôi cùng cười, nhưng tôi biết ngài muốn nói gì.
Chiều hôm đó, tôi được phỏng vấn bởi một nhóm phóng viên hãng truyền hình WBRZ, chi nhánh ABC, đặt tại Baton Rouge, bang Louisiana. Mễ Du đã ám ảnh trí tưởng tượng của dân chúng thành phố Baton Rouge, cũng như cả bang New Orleans, và đoàn làm phim này có mặt ở đây để thực hiện cuốn phim tài liệu thứ hai cho đài truyền hình của họ. Khi đã xong, tôi hỏi người phỏng vấn, anh John Pastorek, và người quay phim, anh Robert Chandler, về cuốn phim tài liệu thứ nhất của họ.
John nói: “Khi chúng tôi về đến nhà, ai ai cũng muốn hỏi xem chúng tôi có thấy mặt trời múa và cây Thập giá quay hay không, và những câu đại loại như thế. À, chúng tôi có thấy mấy chuyện đó, nhưng những gì gây ấn tượng nhất nơi chúng tôi và được chúng tôi tập trung vào trong phim tài liệu, đó là những phép lạ nơi con người - những con người được đổi đời, được đào sâu hay phục hồi lòng tin, và các ơn khác.”
Đặc biệt là anh đã kể về chuyện một phụ nữ ở thành phố Apaloosas, bang Louisiana, đi hành hương với bà mẹ trong cùng một chuyến với nhóm các anh ấy. Gần tàn phế ở chân, gần mù cả hai mắt, kèm theo đôi tai điếc, bà đã qua hơn 60 lần giải phẫu, và lẽ ra đã không sống nổi. Cũng như bao người khác, bà đến với hi vọng sẽ được phép lạ chữa lành, và tuy được phép vào phòng hiện ra, lúc bấy giờ còn xảy ra tại nhà xứ, bà cũng vẫn không được khỏi bệnh. Thay vào đó, bà được một thứ khác.
Bà nói với John: “Khi nhìn quanh tôi và thấy những người hoàn toàn không đi đứng được, những người hoàn toàn mù mắt suốt cả đời, tôi nghĩ: “Chúa ôi! Con đang cầu nguyện cho một điều sai lầm! Con cứ xin Chúa một phép lạ, trong khi con phải xin Chúa tha thứ cho trái tim vô ơn của con.” John mỉm cười: “Anh có thể thấy được sự bình an tràn ngập trên bà ấy! Để kiểm chứng điều đó, chúng tôi trở lại thăm bà một tuần sau khi trở về nhà, và thấy cả hai mẹ con bà mặt mày rạng rỡ. Họ đã đến bác sĩ khám nghiệm, ông này cho bà biết có một loại giày mới có thể mua được, và chỉ cần một cuộc tiểu phẫu, bà sẽ không còn phải ngồi xe lăn nữa. Thực tế, bà còn không cần phải dùng cả cái gậy chống nữa!” John ngưng một lát, “Nhưng phép lạ thật ở đây là điều đã xảy ra trong lòng bà khi bà xin Chúa tha thứ.”
Sáng hôm sau, chúng tôi đi theo John và Robert khi họ đến nhà Vicka để phỏng vấn cô. Rất chuyên nghiệp, họ chuẩn bị ánh sáng và máy quay rất nhanh, nên làm cho Vicka và thông dịch viên được tự nhiên thoải mái. John là một người phỏng vấn có năng khiếu, anh theo trực giác đặt ra những câu hỏi thường là những vấn đề mà các khán thính giả của anh muốn biết nhất. Khi họ sắp sửa bắt đầu, có một nhóm người Philippin đứng sẵn ở ngoài đường, chờ đến phiên để nói chuyện với Vicka. Và phía sau họ, lại có một nhóm khác, từ Ý tới... Cho nên, câu hỏi đầu tiên của anh là: Cô nghĩ thế nào khi hàng ngàn người (theo nghĩa đen) quấy rầy đời tư của cô hằng ngày?
Vicka nhún vai và mỉm cười: “Đối với tôi, chuyện đó đã trở nên bình thường. Tôi biết người ta đến đây để được nghe những lời của Đức Mẹ, và tôi thấy may mắn vì những lời ấy đến qua tôi.”
Kế tiếp là một câu mà tôi đã muốn hỏi cô nhiều lần: Từ ngày đầu hiện ra đến nay đã sáu, bảy năm, có khi nào cô ngồi lại một mình và nghĩ về Đấng mà cô hầu chuyện không?
- “Tôi cảm thấy tôi là người may mắn được Đức Mẹ chọn và tôi rất, rất mừng khi có thể chuyển những sứ điệp tôi nhận từ Người đến cho dân chúng. Đôi khi tôi cũng nghĩ đến những người này, và tôi biết hầu hết họ đến đây vì những lý do tôn giáo, nhưng tôi cũng biết một số đến đây chỉ vì tò mò.”
Lần hiện ra mới nhất xảy ra lúc nào?
- “Thưa tối hôm qua. Tôi được Đức Mẹ hiện ra, nhưng không có gì đặc biệt, sứ điệp đặc biệt cũng không. Thường thường, khi không có gì đặc biệt, tôi cầu nguyện chung với Đức Mẹ và chúng tôi cầu nguyện cho tất cả mọi người hành hương...”
Đức Mẹ có tính cách như thế nào?
- “Có khi buồn, có khi vui - giống bất cứ người nào khác.”
Cô phản ứng thế nào khi được thấy Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên?
- “Thoạt đầu, khi mới nghe Đức Mẹ hiện ra, tôi không tài nào tin nổi. Tôi không tưởng tượng được là Người lại có thể hiện ra với bất cứ ai. Rồi khi chính tôi được thấy Người, tôi không biết mình đang sợ hay đang hạnh phúc.”
Làm sao cô biết đó là Đức Trinh Nữ Maria, chứ không phải ai khác?
- “Tôi biết đó là Đức Mẹ, vì ở trần gian không có ai giống như vậy, và vì chúng tôi đã được thấy ngày hôm trước rồi. Chúng tôi chắc chắn đó chính là Người.”
Sứ điệp mạnh mẽ nhất mà Người đã trao cho các thị nhân là gì?
- “Cầu nguyện cho hòa bình - đó là sứ điệp mạnh mẽ nhất.”
Tại sao?
- “Vì Đức Mẹ dạy rằng lời cầu nguyện rất có quyền thế, cầu nguyện có thể chận đứng chiến tranh. Nhưng trước khi chúng ta cầu nguyện cho hòa bình thế giới, chúng ta phải có sự bình an trong tim và trong gia đình ta. Nếu chúng ta được bình an trong lòng, chúng ta mới có thể hiểu tất cả các sứ điệp khác mà Người ban cho chúng ta ở đây.”
Rất nhiều người bên ngoài đang nói rằng tất cả sự việc ở đây chỉ là một trò bịp bợm. Cô phải nói gì với họ?
- “Tôi chẳng có gì để nói với họ cả. Đức Mẹ có một lần đã nói: “Chúng con có thể cầu nguyện cho những người đó.”
Toàn thể sự việc này có thay đổi đời cô không? Có làm cho bản thân cô tốt hơn, đạo đức hơn không?
- “Tôi đang cố gắng thay đổi, nhưng tôi không biết có thành công hay không.”
John kết thúc cuộc phỏng vấn với câu hỏi: Đức Trinh Nữ Maria có sứ điệp nào cho những người không đến được nơi đây không?
- “Những sứ điệp chính của Đức Mẹ là cầu nguyện, ăn chay, đền tội, hối cải và bình an. Người xin chúng ta nguyện kinh Mân Côi. Người muốn chúng ta ăn chay mỗi tuần một lần, với bánh mì và nước lã, và có lòng tin mạnh mẽ. Người xin chúng ta cầu nguyện, nhưng cũng xin ta mở lòng ra mỗi ngày để có thể cảm thấy niềm vui trong lòng và để nghĩ đến từng lời kinh đang đọc. Đức Mẹ nói rằng khi chúng ta khởi sự việc cầu nguyện, hãy bắt đầu bằng một kinh Lạy Cha, vì Cha chúng ta là một người cha vĩ đại ngự trên trời. Chúng ta cần phải dẹp bỏ những gì quấy rầy chúng ta, mà hãy giao chúng cho Đấng Cứu Chuộc và hãy để Ngài hướng dẫn chúng ta. Đức Maria như mẹ của chúng ta, Người trông thấy chúng ta bằng con mắt của Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện như thế, rồi các bạn sẽ không thấy việc nguyện kinh Mân Côi mỗi ngày là khó nữa. Khi các bạn gặp phải khó khăn, các bạn cứ tưởng Thiên Chúa và Đức Maria đang ở xa các bạn, nhưng không đúng đâu: các Ngài vẫn luôn luôn ở gần bạn. Người yêu cầu chúng ta từ bỏ một đôi điều, từ bỏ tội lỗi... Người nói là hiện nay Satan rất mạnh và muốn quấy rối chúng ta trong mọi sự. Đó là lý do tại sao Đức Maria muốn chúng ta tăng cường cầu nguyện để có thể đuổi nó xa ta...”
W. Weible đang nói chuyện với thị nhân Vicka
Thật là đơn giản và trực tiếp - giống như hầu hết sứ điệp đến từ Đức Maria trong suốt bảy năm nay. Tôi ngồi đấy, thấm thía với câu trả lời cuối cùng. Vicka đã đặt hết sinh lực vào đó hơn bao lần khác tôi đã chứng kiến trước đây. Vicka nhìn tôi với nụ cười ấy, nụ cười khiến ta tin tưởng hoàn toàn vào lời nói của cô. Đột nhiên cô phá lên cười nói: “Nhìn anh kìa, tôi làm anh khóc rồi!”
Tôi mỉm cười với cô và lắc đầu: “Tôi không bao giờ chán nghe sứ điệp. Và chưa lần nào tôi nghe cô diễn đạt hay đến thế. Nó làm tôi cảm động quá!”
Vicka ôm hôn tôi, và khi chào từ giã, tôi nói với cô: “Xin nói với Đức Mẹ là tôi yêu Người lắm, và tôi rất mừng vì Người đã chọn cô.”
Tối hôm đó, chúng tôi may mắn được lên đồi Podbrdo tham dự một buổi hiện ra ban đêm. Tôi mừng vì David sẽ được dịp để kinh nghiệm chuyện này như tôi cũng đã được trong chuyến đi đầu tiên. Tiếng hát vang lên khắp nơi trên đồi và David giật mình khi nghe hát bài “Các Thánh tiến bước vào đền thánh”, được hát bằng tiếng Croát. Sứ điệp của Đức Maria tối hôm đó hoàn toàn ăn khớp với đoạn kết của cuộc phỏng vấn Vicka: Hãy cảnh giác trước những âm mưu của Satan đang tìm cách lôi kéo chúng ta khỏi sự vâng phục đối với Con Chí Thánh của Người.
Cũng giống kỳ trước đây, khi chúng tôi xuống đồi tiếng ca hát nhẹ nhàng vang lên khắp không gian, lẫn với tiếng hót líu lo vui vẻ của hằng ngàn chim chóc. Đó là một kết thúc đẹp đẽ cho một ngày rất phong phú của chúng tôi.
Vào khoảng hơn bốn giờ sáng, chúng tôi giật mình choàng tỉnh bởi một tiếng sấm khủng khiếp chúng tôi chưa nghe thấy bao giờ. Tôi với tay bật đèn - nhưng không sáng. Tôi khẽ gọi David: “Anh thức chưa?”
- “Anh có đùa không đấy? Xem ra nó gần như là tiếng sấm báo Ngày Phán Xét chung hơn là tôi tưởng!”
- “Ngày gì thì ngày, nhưng hình như nó làm mất điện hết.”
Khi không nghe tiếng David trả lời, tôi lặp lại câu ấy lần nữa. Vẫn im lặng.
- “Anh có sao không?”
David khúc khích cười: “Tôi đang lắng tai nghe mấy tiếng reo hò đầu tiên.”
- “Anh nói về cái gì?”
- “Tôi nói về dân chúng. Họ gọi nhau lên đồi để xem dấu lạ.”
Lúc đó, tôi mới hiểu anh muốn nói gì - cũng may là anh chỉ nửa đùa nửa thật. Chả là vì chiều hôm trước, tôi đã kể cho anh về Dấu lạ trường kỳ mà Thiên Chúa sẽ gởi đến, để cho loài người biết chính Người khởi xướng và sẽ hoàn tất công trình tại Mễ Du. Dấu lạ ấy sẽ như thế nào, chỉ có các thị nhân biết. Đó là một trong mười bí mật hoặc những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai trên thế giới, mà Đức Mẹ sẽ nói cho họ, và các bí mật ấy sẽ không được tiết lộ cho đến khi có lệnh của Người.
Bên ngoài mưa bắt đầu đổ xuống. Nằm nghe tiếng mưa ào ào trên mái nhà, tôi biết không ai trong chúng tôi sẽ ngủ lại được. David nói: “Về các bí mật, tại sao lại phải bí mật? Trong những điều người ta cho là do Người nói, chẳng có gì là bí mật.”
- “Theo lịch sử, Người đã có làm điều này. Đã có những bí mật được ban cho thị nhân tại Lộ Đức và Fatima. Trong bí mật Fatima có nói đến việc nước Nga sẽ trở lại Kitô giáo.”
David cười: “Trước glasnost (chính sách mở cửa ở Liên Xô cũ), tôi có thể cho chuyện đó là không thể có. Nhưng nhìn sự việc đang diễn tiến như hiện nay, rất có thể đã đến thời kỳ cuối cùng. Vậy anh làm ơn nói thêm cho tôi về các bí mật được trao ở Mễ Du đây.”
Tôi kể: ba bí mật đầu sẽ là những cảnh báo cho nhân loại và có một Dấu lạ trường kỳ. Bí mật thứ tư, năm và sáu liên quan đến đời sống cá nhân của các thị nhân và về dân làng này, bí mật còn lại là về các trừng phạt cuối cùng. Nhưng bí mật thứ bảy đã được giảm nhẹ, nhờ tất cả những kinh nguyện và chay tịnh - vốn là kết quả của hàng bao triệu người đã hành hương đến Mễ Du.
- “Dĩ nhiên,” tôi nói tiếp, “đây chỉ là ý kiến riêng của tôi thôi, vì không ai ngoài các thị nhân biết chắc được thứ tự và nội dung của các bí mật.”
Anh bạn tôi hỏi: “Thế có biết được về thời gian diễn tiến thế nào không?”
- “Ngay sau khi sáu thị nhân lãnh xong tất cả mười bí mật, việc hiện ra sẽ ngưng. Rồi sau một thời gian ngắn, bí mật bắt đầu thực hiện.”
- “Có ai trong sáu thị nhân đã nhận hết mười bí mật?”
- “Ivanka và Mirjana. Từ đó Đức Mẹ chỉ hiện ra cho hai em, (Ivanka) vào ngày kỷ niệm hiện ra lần đầu tiên (24-6-1981), và (Mirjana) vào ngày sinh nhật của em (18-3), hoặc thỉnh thoảng khi họ có nhu cầu cần thiết.”
- “Thế còn bốn người kia? (14)
- “Họ đều nhận được tất cả chín, ngoại trừ bí mật cuối cùng.”
Im lặng một lúc trong bóng tối. Lát sau, bạn tôi nói: “Vậy là sắp tới lúc cuối rồi phải không?”
Tôi không trả lời ngay: “Nếu vào năm trước, có thể tôi đã nói “Phải”. Nhưng bây giờ, tôi không chắc. Vì một lý do: tất cả các thị nhân (còn lại) đều đã nhận bí mật thứ chín từ hơn ba năm qua, thế nhưng việc hiện ra vẫn tiếp diễn, trong khi mọi người cứ chơi trò đoán già đoán non khi nào các việc ấy chấm dứt. Thật tình mà nói, tôi nghĩ các cuộc hiện ra còn tiếp diễn nhiều năm nữa.”
- “Tại sao?”
- “Tại vì người ta đọc kinh cầu nguyện không biết bao nhiêu mà kể và người ta tích cực đáp ứng sự thăm viếng của Đức Maria đến nỗi thời gian hiện ra rõ ràng là đang được kéo dài. Đây cũng là ý kiến cá nhân tôi thôi!”
- “Trước kia, đâu có như vậy phải không?”
- “Phải, không giống như thế này. Ở Lộ Đức và Fatima, mỗi nơi đều có những hiệu quả thiện ích sâu sắc - nhưng không giống như những gì đang diễn ra ngày nay. Đương nhiên, nếu so sánh, thì Người chỉ hiện ra ít lần ở những nơi ấy. Còn ở đây, đã đều đều liên tục suốt bảy năm trời. Mà cũng ở đây, hạt giống đã rơi xuống đất tốt. Dù thế nào, hằng triệu người đã cải hối và điều đó phát xuất từ nơi đây. Thực tế, cá nhân tôi, tôi cho rằng đây là biến cố đáng kể nhất trong thế giới Kitô giáo, kể từ khi Đức Giêsu lên trời và Giáo Hội được thành lập.”
David ngẫm nghĩ về điều đó một lát rồi hỏi: “Vậy là cuối cùng Thiên Chúa đã lôi kéo được sự chú ý của con người - rồi sao nữa đây?”
Linh mục Petar Ljubicic, được cô Mirjana chọn làm người sẽ thông báo cho toàn thế giới các bí mật Đức Maria đã trao cho cô.
Tôi bèn bèn nói với anh là: khi bí mật cuối cùng đã được tiết lộ cho thị nhân sau hết, lúc ấy Mirjana, là thị nhân đầu tiên tiếp nhận tất cả mười bí mật, sẽ vâng lệnh Đức Mẹ mà tiết lộ bí mật thứ nhất cho một linh mục do chính cô chọn. Và Mirjana đã chọn cha Petar Ljubicic, trước kia làm cha xứ một họ đạo gần Zagreb, nhưng ngẫu nhiên, cha lại được bổ nhiệm về Mễ Du không lâu sau khi thị nhân này quyết định chọn ngài. Sau khi nhận bí mật ấy từ Mirjana, cha Petar sẽ ăn chay bảy ngày và sau đó sẽ tiết lộ bí mật thứ nhất cho thế giới. Nó sẽ xảy ra ba ngày sau đó. Quy trình này sẽ được lặp lại cho đến khi chín bí mật kế tiếp cũng được tiết lộ hết.
- “Vậy anh hoàn toàn không biết những cuộc hiện ra sẽ kéo dài bao lâu?”
- “Không biết,” tôi đáp, “có thể là cho đến khi tất cả những ai phải đến đây, hoặc sẽ được Mễ Du tác động một cách nào đó, tất cả họ ai cũng đều được có cơ hội.”
- “Còn anh có một chút ý kiến nào về sự kiện hiện ra này sẽ kéo dài bao lâu không ?”
- “À, như tôi đã nói, có thể kéo dài nhiều năm nữa. Nhưng tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu mọi việc kết thúc vào ngày mai - hoặc tiếp tục chín mười năm nữa.(15) Trong các sứ điệp được trao cho một thị nhân tôi đã gặp ở Bắc Ai-len hồi tháng năm vừa rồi, Đức Mẹ có nói với thị nhân đó vào năm trước, rằng thế giới còn mười năm nữa để trở lại với đường lối của Chúa, tức là cho đến năm 1997.”
- “Vậy đây là lần cuối Người đến chăng?”
- “Người có nói như vậy,(16) nhưng cùng một thời gian đó, có nhiều báo cáo cho biết Người cũng đang hiện ra ở các nơi khác - tại Nhật Bản, nước Nga, và như tôi đã nói, ở Ai-len nữa. Nhưng sau thời kỳ này thì không còn...”
- “Trở lại với các bí mật, Người có nói gì về các hình phạt?”
- “Rất ít, ngoại trừ chúng sẽ có tính cách toàn cầu. Và bảo chúng ta không nên suy đoán về chúng.”
Im lặng khá lâu. Tôi bắt đầu thắc mắc không biết David có ngủ thiếp đi hay không. Bỗng anh lên tiếng: “Được, tôi sẽ chẳng suy đoán gì hết, nhưng những người chuyên tung tin giật gân sẽ làm. Khi chuyện này được người ta biết đến rộng rãi hơn, họ sẽ trích bừa chuyện này ra mà không cần biết đầu đuôi, và phóng đại lên rằng: Khải huyền Công giáo!”
- “Họ đã làm rồi.” tôi nói nhẹ nhàng.
- “Đa số các bạn trong giáo phái Tin Lành của tôi trông đợi rằng chúng ta sẽ kinh nghiệm mối thảm họa trong thời đại này. Nhưng thói thường, các tín hữu vẫn luôn đã tiên đoán và những sự kiện của sách Khải Huyền suốt từ thời các Thánh Tông đồ đến nay.”
- “Các bạn anh, họ nghĩ chuyện đó sẽ xảy ra như thế nào?”
David thở dài, “Nhiều người cho rằng đó sẽ là một sự hủy diệt toàn bộ bằng nguyên tử, còn tôi thì không nghĩ vậy. Tôi nghĩ là các tai họa xảy đến đều do thiên nhiên – như là hành động của Thiên Chúa, không phải của con người.”
Tôi không nói ra, nhưng tôi không đồng ý với David. Con người, như họ vẫn thường làm, sẽ phát động một cuộc tự hủy cuồng loạn khi sự dư dật Thiên Chúa ban cho bắt đầu khô cạn dần. Nước này sẽ gây chiến với nước kia...
Ánh dương ló dạng trên bầu trời trong sáng, và tất cả cảnh vật trông mát mẻ, sạch đẹp nhờ trận mưa vừa rồi. Đã được hẹn để phỏng vấn Ivan, chúng tôi đến nhà cậu và gặp cậu ở phòng khách. Cậu là một thanh niên nghiêm túc, trầm tĩnh, dè dặt, và vừa mừng sinh nhật thứ 23. Qua người thông dịch, tôi hỏi cậu có còn chút thì giờ rảnh rỗi nào chỉ để làm cái gì mình thích không.
- “Người ta luôn có thể tìm ra cho mình thời giờ rảnh rỗi, nếu họ muốn. Để giải trí, tôi chơi thể thao, và thỉnh thoảng cũng xem người ta chơi. Nhưng những thứ đó không đưa chúng ta lên thiên đàng. Cho nên tôi thường xếp thể thao qua một bên. Đức Mẹ không bảo, nhưng tôi tự ý làm như vậy.”
W. Weible nói chuyện với thị nhân Ivan
Tôi nói với Ivan tôi quan tâm đến những thay đổi tôi nhận thấy tại Mễ Du - không chỉ là những quầy bán hàng lưu niệm hoặc quán cà phê, nhưng là sự thay đổi nơi các con người. Hình như không có nhiều dân làng đi nhà thờ như hồi trước nữa; còn lớp trẻ thì hình như luôn la cà ở các quán cà phê, mà phần lớn bây giờ lại còn kèm thêm quầy rượu - nơi mà người trẻ không nên đến. Có phải đồng tiền đột ngột tràn vào như nước đã tác động đến họ? Các nhóm cầu nguyện của người trẻ chẳng hạn, còn tiếp tục không?
- “Còn chứ.” Ivan đáp, “Hiện nay có ba nhóm. Hai nhóm do nhà thờ thành lập và được hướng dẫn bởi cha Slavko và cha Petar. Tôi hướng dẫn nhóm thứ ba. Trong nhóm, chúng tôi cố gắng kết nạp càng nhiều người trẻ càng tốt. Nhưng hiện có nhiều ảnh hưởng từ bên ngoài lôi cuốn sự chú ý của họ. Nhiều khi cha mẹ họ quá bận bịu - quá nhiều khách ở trong nhà, và không đủ thì giờ lo cho con cái. Vì vậy, một vài người trong nhóm cầu nguyện của chúng tôi đến từng nhà một, nói chuyện với họ. Có những gia đình tiếp chúng tôi cách miễn cưỡng, nhưng chúng tôi đến với tư cách sứ giả của Đức Maria, cho nên sớm muộn gì họ cũng nhận ra điều này. Chúng tôi hoạt động đặc biệt nhắm vào trẻ em, và đã có một số kết quả. Nhưng, chúng tôi phải kiên trì.”
1987. Ivan nay đã trưởng thành, đã thắng tính nhút nhát và bắt đầu đến gặp khách hành hương
Tôi đã có một ấn tượng hết sức mạnh mẽ về thị nhân trẻ tuổi này, từ lâu được coi như quá nhút nhát để đi gặp các đám đông như Vicka và Marija thường làm, mà bây giờ chính cậu đang đi đến hết nhà này qua nhà kia trong giáo xứ, cố gắng giúp bạn bè hồi tâm.
Tôi hỏi Ivan về việc nhận thông điệp hằng tháng, thông điệp mà Đức Maria muốn ban cho toàn thế giới vào ngày 25 mỗi tháng, và tôi để ý thấy thông điệp tháng mười có vẻ dài hơn bình thường...
Ivan trả lời: “Thông điệp này được trao cho Marija.”
- “Nhưng cậu không nghe thông điệp ấy cùng lúc với Marija sao? Cả bốn người không nghe cùng một lượt sao?”
- “Không, tôi không được nghe thông điệp đó (thông điệp mỗi tháng), chỉ có Marija nghe thôi.”
Tôi ngạc nhiên về điều đó, vì cứ tưởng là các thị nhân đều được nghe cùng một lượt như nhau. Tôi hỏi dồn: “Có phải một số sứ điệp hằng ngày có tác động ảnh hưởng lớn hơn các sứ điệp khác không?”
- “Tôi không nghĩ vậy, mỗi một sứ điệp được ban ra đều có một lý do đặc biệt. Tất cả đều giúp chúng ta.”
Tôi hi vọng Ivan sẽ hiểu câu hỏi sau đây và lý do tại sao tôi hỏi câu ấy: “Ivan này, nhiều người sau này không phải là Công giáo sẽ đọc sách của tôi. Ở bên Mỹ, bảy mươi lăm phần trăm dân chúng theo đạo Tin Lành, họ không biết gì về Đức Maria và không chấp nhận chạy đến cầu nguyện với Ngườì. Có lẽ do một người Tin Lành viết về Người mà họ sẽ lắng nghe chăng? Có thể nói điều gì với một người Tin Lành để họ được cởi mở với Đức Maria?”
- “Điều tối quan trọng là phải nhấn mạnh cho người ta biết Đức Maria đã đến với tất cả chúng ta. Sứ điệp của Người nói với toàn thế giới. Xuyên suốt các sứ điệp, Người nhắn nhủ chúng ta phải cầu nguyện cho tất cả mọi tôn giáo, bởi vì chúng ta biết là chúng ta tự chia rẽ nhau vì tôn giáo. Thiên Chúa không chia rẽ chúng ta. Người không đem chiến tranh đến cho chúng ta...”
- “Nhưng người ta vẫn cứ giữ luận điệu này, họ nghĩ là Đức Maria đang chiếm chỗ của Đức Giêsu.”
- “Làm sao họ có thể nghĩ như thế được?” Ivan trả lời với vẻ hơi bực bội: “Đức Maria được chính Con của Người là Đức Giêsu gởi đến trần gian mà.”
Tôi vạch ra cho cậu thấy là họ không tìm thấy vai trò như vậy của Đức Maria trong Kinh Thánh.
- “Chúng ta phải đào sâu về vấn đề này hơn nữa, ngay cả từ khía cạnh thần học, chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa thật cho các lời Chúa nói. Đức Maria xin chúng ta cầu nguyện với trái tim, cầu nguyện bằng con tim để chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của những lời ấy.”
Tôi muốn trở lại với vấn đề giới trẻ ở Mễ Du. Trong mấy chuyến đi vừa qua, tôi để ý thấy có nhiều bạn trẻ đi chơi khuya, la cà ở mấy quán cà phê, và không dự lễ như trước nữa; Ivan có thấy điều đó xảy ra tại Mễ Du không?
- “Vâng, chúng ta có thể nói về những người giàu và những người nghèo. Ngày nay nhiều người rất nghèo, nhưng họ có một đời sống gia đình rất tốt và hạnh phúc. Trái lại, ở nhiều gia đình khác, tôi thấy không có sự đoàn kết trong gia đình, không có sự hợp nhất giữa chồng và vợ. Họ không bao giờ có thời giờ cho con cái, không bao giờ đọc kinh cầu nguyện chung với con cái...”
Vì Ivan dừng lại, David vội lên tiếng: “Cậu nói tiếp đi!”
Ivan mỉm cười và nói: “Đây là đề tài tôi rất thích đề cập đến. Khi bạn nói chuyện với giới trẻ ngày nay, đây là vấn đề rất nóng bỏng - giống như một ngòi nổ sắp bật tung trần nhà hay giống như một đám lửa bùng cháy ở trong nhà vậy. Giới trẻ ngày nay ra đường là có đủ thứ chào mời: rượu, ma túy và bao thứ khác. Các bậc cha mẹ hình như vừa điếc vừa mù. Họ bận bịu vì của cải vật chất hơn là vì con cái họ. Trong thời gian tôi lưu lại các nước Áo, Ý và Đức, tôi đã nhận ra sự khác biệt giữa giới trẻ các nước ấy. Giới trẻ Ý đặc biệt nhất.” Cậu không có ý nói câu ấy như lời khen tặng khi nói thêm rằng họ có nhiều vấn đề hơn các bạn trẻ khác.
Tôi cười: “Cậu hãy đợi đến khi thấy nước Mỹ!”
Tôi đang nghe và đang thấy một Ivan khác hẳn với Ivan tôi đã gặp cách đây hai năm. Bây giờ cậu đã trưởng thành một cách đáng kể và rất thoải mái trong các cuộc phỏng vấn. Đã có lúc Ivan không muốn tiếp xúc với giới truyền thông, cũng không muốn gặp khách hành hương. Một năm thi hành nghĩa vụ quân sự đã giúp ích cậu rất nhiều.
Câu hỏi cuối cùng: “Đã có thời kỳ cậu cân nhắc về ơn gọi làm linh mục - điều đó vẫn còn khả năng thực hiện chứ?”
- “Đó là chuyện riêng tư. Thoạt khi mới đến, Đức Maria đã cho chúng tôi được tự do, và nói với tất cả chúng tôi rằng bất cứ điều gì chúng tôi làm cho cuộc đời mình là do chính chúng tôi quyết định.”
Đây là một câu trả lời thật hay, và cũng là một điểm thuận tiện để kết thúc cuộc phỏng vấn.
Tối hôm đó, cha Slavko mời chúng tôi lên gác lửng của nhà thờ, chỗ dành cho ca đoàn, là nơi Đức Maria hiện ra trong thời gian này. Đoàn quay phim của đài truyền hình thành phố Baton Rouge, bang Louisiana cũng đang có mặt, cũng như một ký giả đến từ Pháp, một linh mục từ Anh, và một thần học gia từ Đức. Ivan là thị nhân duy nhất. Khi cuộc hiện ra bắt đầu, cha Slavko ra dấu cho David để anh hiểu anh có thể bước tới và chụp ảnh khuôn mặt của Ivan đang lúc cậu nói chuyện với Đức Mẹ. Tôi thúc nhẹ khuỷu tay vào David, nhưng anh đã bất động. Cuối cùng, anh cũng chụp được vài tấm.
Chúng tôi xuống thang để dự lễ tiếng Croát, và sau đó, khi chúng tôi ra khỏi nhà thờ, David lộ vẻ choáng váng...
Tôi hỏi: “Anh làm sao vậy?”
Anh chỉ lắc đầu: “Chỉ vì chuyến đi của chúng ta sắp kết thúc rồi. Tôi thấy khó mà chấp nhận được điều này.”
Vì hôm sau là ngày cuối cùng, chúng tôi đi lên đồi Podbrdo từ sáng sớm để ngắm những tia nắng đầu ngày đang lan dần sang phía bên kia thung lũng còn ngủ yên. Thế mà xa bên dưới, trên đường làng, người ta đã tụ tập bên ngoài nhà Vicka rồi.
David lắc đầu: “Tôi không hiểu nổi làm sao người ta có thể tin là bọn nhóc ấy đang bày trò lừa bịp. Anh chỉ cần nhìn vào lối sống của chúng: làm như thế thì kiếm được lợi lộc gì? Chúng không hề nhận một món tiền nào.” Anh ngừng lại, “Cứ cho là chúng được danh tiếng - nhưng nói thật, ai mà muốn? Ivan nói chúng được tự do lựa chọn, nhưng bây giờ chúng có rất ít tự do hơn trước. Cứ phải chịu đựng cũng những câu hỏi ấy (của hàng triệu khách hành hương), cũng sự thô lỗ và vô tình ấy, hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm nọ.” David dừng lại một chút, “Tôi chỉ mới được gặp Ivan và Vicka, nhưng sau một giờ tiếp xúc với mỗi em, tôi phải khẳng định là hai em này không có chút man trá nào.”
Tôi gật đầu: “Marija cũng vậy. Buổi tối cuối cùng tôi trọ ở nhà cô ấy trong chuyến đi trước, chúng tôi thức khuya ăn bánh, uống trà, rồi xem album ảnh của cô. Có những tấm hình đúng là của týp trai gái choai choai, chụp cô và các bạn nhăn mặt làm hề trước ống kính, hoặc đi cắm trại, và những trò đại loại như vậy. Các thị nhân kia cũng thế - chỉ là những người trẻ bình thường, được giao cho một sứ mạng rất đặc biệt là làm thị nhân và sứ giả của Đức Trinh Nữ Maria.” Rồi tôi nói thêm - cho tôi hơn là cho David: “Anh biết không, sứ mệnh ấy không khác gì sứ mệnh Người giao cho tôi.”
David chụp ảnh thung lũng phía dưới. “Tôi vừa nghĩ ra được điều này – anh nói – có lẽ đây là một lý do khác giải thích tại sao việc hiện ra kéo dài như vậy. Bọn trẻ này là những thanh thiếu niên bình thường. Chúng không tài nào bịp được người ta lâu ngày như vậy! Cùng lắm vài ba ngày, hoặc thậm chí một tuần. Nhưng không thể nào suốt bảy năm ròng rã. Không thể nào bịp được bao nhiêu người luôn cố rình rập hoặc gài bẫy để bắt quả tang các em nói dối. Không thể nào bịp nổi từng đoàn các nhà khoa học đến nối chằng chịt dụng cụ, đo điện não vào các em trong giờ hiện ra!”
Anh lại chụp thêm một tấm khác (từ đồi nhìn xuống thung lũng).
Từ đồi Podbrdo nhìn xuống thung lũng làng Mễ Du. Cây thập giá ghi dấu những lần Đức Maria hiện ra đầu tiên. Người hành hương luôn trèo lên đồi đến đây cầu nguyện. Chính nơi đây, sẽ xảy ra Dấu lạ trường kỳ để người ta tin Đức Mẹ đã đến kêu gọi ăn năn hối cải
- “Không – anh nói – tôi e rằng những kẻ gièm pha sẽ phải bày ra một cách giải thích khác thôi!”
Tôi nói cách đăm chiêu: “Một số người nói các linh mục đang kiểm soát các em, giật dây các em để thực hiện trò bịp bợm cho mục đích riêng của họ.”
David đáp: “À, tôi cũng không thấy điều đó. Ở đây, ông Giám Mục đang dùng quyền hành làm đủ cách để bịt miệng các thị nhân, trong khi các linh mục (ở Mễ Du) làm việc quần quật từ sáng đến tối.”
- “Những người kết án họ lại nói các linh mục ấy bày ra chuyện này để gây thế lực.”
David chế diễu: “Mấy kẻ đó khỏi cần một giờ tiếp xúc gì hết với ông linh mục Svet hay Jozo, hay bất cứ ông nào trong số họ. Nếu họ có một chút đầu óc sáng suốt, thì chỉ mười phút thôi cũng đủ thấy lời tố cáo ấy tức cười trắng trợn như thế nào!”
Tôi cười lớn: “Ê, tôi cùng phe với họ, anh nhớ không?”
Anh cũng cười theo: “Mấy ông nội đó cũng chỉ là người trần mắt thịt, chẳng phải giòng giống siêu thày tu. Và tôi đã nghe nhiều lời đồn đại về ông này ông kia - nhưng thật ra, nếu không có tin đồn thì tôi sẽ đâm nghi ngờ ngay, vì nghĩ có lẽ họ không làm công việc của họ. Nhưng chính vì họ là người phàm, chứ không phải những anh hùng áo dòng nâu, thế mới làm cho gương của sự tùng phục của họ càng thêm hấp dẫn.”
Tôi lại cười: “Vậy thì lại phải có một giải thích khác!”
Chúng tôi đến nhà thờ dự lễ tiếng Anh, và sau đó đi ra nghĩa địa ở trảng cây bá hương, nơi đã trở thành góc thích nhất của anh cũng như của tôi ở Mễ Du. Cả tuần nay, tôi để ý anh ngày càng trở nên bình tĩnh và suy tư. Anh thầm thì: “Hãy nói về sự tiết chế giác quan: ngay cả thức ăn cũng đạm bạc, dân dã. Thiên Chúa đã chiếm hữu toàn tâm toàn ý của anh ở đây, suốt một tuần lễ! Tôi cuộc rằng đối với nhiều người đến đây, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, họ có được kinh nghiệm này.”
Tôi mỉm cười với anh và nói: “Tôi nghĩ là anh đã thấm rồi đó!”
Các đoàn khách hành hương từ bốn phương đến bằng những chuyến xe buýt khổng lồ, trên các con đường làng bé nhỏ của Mễ Du
Trong nghĩa địa, một làn gió nhẹ lay mấy cành bá hương chót vót, và xa xa, ánh nắng hồng chiếu tỏa trên ngọn núi Krizevac. Một vài đám mây lác đác, lững lờ bay trên bầu trời. Khi chúng tôi chuẩn bị giải quyết các việc trong ngày, thì David đưa tay lên, nói: “Anh có nghe gì không?”
Tôi lắng tai. Từ vườn nho bên ngoài cánh cổng vọng lên tiếng ai đang đọc kinh Mân Côi. Tiếng ấy có vẻ càng lúc càng đến gần hơn. Bấy giờ, chúng tôi mới thấy một bà cụ đang đi về phía nghĩa địa, vừa đi vừa tỉa lá nho để sức tăng trưởng của cây dồn cho trái. Chúng tôi tránh ra phía khác để bà khỏi nhìn thấy và ngó bà đi tới.
Bà đi vào cổng nghĩa địa, tay ôm bó hoa huệ mới cắt. Bà âu yếm đặt bó hoa trước tấm bia mộ còn mới rồi khóc, và quay lại với công việc trong vườn nho. Bà không ngớt đọc kinh Mân Côi.
Chúng tôi bước tới xem tấm bia đá. Một người tên là Ivan đã được chôn cất ở đây vài tháng trước, và theo ngày sinh, chúng tôi tính ra ông đã ngoài 82 tuổi - chắc chắn là chồng bà cụ. Chúng tôi vẫn còn nghe tiếng bà đọc kinh, khi tôi đề nghị hai đứa tôi tách ra để cầu nguyện và yên lặng một mình, vì là ngày cuối của chúng tôi trong ngôi làng bé nhỏ này. Tôi bước về phía cánh đồng, nơi bà cụ đã quay về. Cụ vẫn đang đọc kinh. Ngắm nhìn bầu trời, tôi nhận ra rằng mình chưa bao giờ được bình an hơn thế trong chuyến đi này. Tôi cảm thấy như mình cuối cùng đã đi vào “sự bình an vượt tầm hiểu biết”.(17)
Nửa giờ sau, tôi trở lại nghĩa địa và chợt thấy David đang cầu nguyện, đôi mắt đẫm lệ. Giật mình nhìn lên, và trong một khoảnh khắc, người bạn lúc nào cũng oai phong lẫm liệt của tôi đỏ mặt lên vì mắc cỡ. Rồi với một giọng đầy xúc động, anh nói nhẹ nhàng: “Tôi không biết làm sao xa được nơi này.”
Sứ điệp tình yêu, hòa bình và hối cải của Đức Giêsu - được chuyển giao bởi Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc, vị sứ giả thánh thiện đệ nhất, đã chiếm đoạt thêm một trái tim nữa nơi thôn xóm Mễ Du nhỏ bé này.
Trên đất Mỹ, Marija (người thứ hai, từ bên phải, áo sọc ca rô đen) vẫn được Đức Maria hiện ra với cô, trên đây là ngay trong phòng của cô.
***
Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
|