CHỨNG THỰC
Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới có thể giải thoát con người. (Ga 8:32) Về ngữ nghĩa,
chữ giải thoát và giải phóng có nghĩa tương
tự – theo Phật giáo
là giác ngộ, nhưng thiết
nghĩ nên tránh chữ
“giải phóng” trong thời
đại ngày nay. Muốn
“giải phóng” người
khác thì mình phải hơn
người khác, kẻ
kém cỏi hơn không
thể “giải phóng”
người hơn mình
– bất cứ lĩnh vực
nào.
Bởi vì cuộc đời có nhiều thứ giả dối nên
người ta càng cần sự thật. Muốn
biết sự thật thì phải kiểm chứng xem thực – hư ra sao, không
nên nhẹ dạ cả tin
trong xã hội nhiễu
nhương ngày nay. Đức tin vẫn cần lý trí. Có lẽ vì vậy mà Tôma tông đồ chưa tin ngay dù đã nghe nhiều người nói, mà muốn kiểm chứng sự
thật về Người Thầy chí thánh của mình.
Ngôn ngữ biểu hiện bằng chữ.
Mà chữ thì phải có nghĩa. Nghĩa
phải rõ ràng, chính
xác, không thể hàm hồ. Và rồi người ta đã có chủ nghĩa thực chứng
(positivism). Đó là học
thuyết triết học cho rằng các định đề không thể xác minh được khi đối chiếu với
bằng chứng thực tiễn thì chí ít cũng không
thể chấp nhận
đó là một bộ
phận của khoa học, nghiêm túc nói thẳng nói thật thì đó là điều vô nghĩa.
Chủ nghĩa thực chứng là
khuynh hướng nhận
thức luận của triết học và xã hội học, cho rằng phương
pháp khoa học là
cách thức tốt nhất
để lý giải các
sự kiện của tự
nhiên, xã hội và
con người. Khái niệm này được phát triển ở đầu thế kỷ
19 bởi triết gia và nhà xã hội học Auguste Comte, người Pháp. Từ chủ nghĩa này dẫn tới chủ nghĩa
duy vật và vô thần,
cũng dính líu Hội
Tam Điểm. Hội này theo chủ nghĩa duy tâm mơ hồ, tôn kính các thực thể trừu tượng
như Tính Nhân Đạo,
Khoa Học, Lý Luận,
và muốn loại bỏ
Giáo Hội. Thực sự
rất nguy hiểm đối với đức tin Công
giáo!
Tên gọi Hội Tam Điểm (Anh
ngữ: Freemasonry, Pháp ngữ: Franc-maçonnerie, nghĩa là “nền tảng tự do”) dùng
để chỉ một tập
hợp các hiện tượng
lịch sử và xã hội
rất khác nhau tạo
dựng từ môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên quan
các ẩn dụ về người
thợ xây đá. Việt
ngữ gọi hội này là “Tam Điểm” vì các hội viên người Pháp thường gọi nhau là frère (sư
huynh, sư đệ) hoặc
maître (sư phụ),
viết tắt F hoặc M và thêm vào phía sau dấu ba chấm như ba đỉnh hình
tam giác đều.
Đầu thế kỷ 20, các nhà xã
hội học Đức
(Max Weber và Georg Simmel) đã phản đối thuyết thực chứng và lập nên trường phái Phản Thực Chứng (Anti-Positivism)
trong xã hội học.
Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương
Xót (LCTX), CN II PS, được
Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên
thánh Nữ tu Faustina Kowalska
(1905-1938). Cách gọi
khác nhưng chỉ một
ý nghĩa. Cũng vậy,
Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX vẫn là một. Chính
Chúa Giêsu đã mặc khải
cho Thánh nữ Faustina,
vị Tông đồ
tiên khởi của
LCTX, về ước muốn của Ngài: “Ta muốn một tấm hình
được làm
phép trọng thể vào
Chúa Nhật sau Đại
lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều
biết đến tấm hình đó.” (Nhật Ký, số 341) Và điều đó đã được phổ biến toàn
cầu ngày nay, đặc biệt trong cơn đại
dịch corona này, con người càng cần
đến LCTX hơn bao giờ hết.
Trong Nhật Ký, Thánh Faustina cho biết lời hứa của Chúa
Giêsu: “Ta muốn ban ơn
tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương
Xót của Ta.” (số 1109) Đó là Ơn
Toàn Xá mà Người Trộm
Lành Dismas (Dimas) đã được lãnh nhận
ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, khoảng 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó,
Nguồn Mạch Lòng
Thương Xót của Thiên
Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời
cho mọi người, chỉ với một điều
kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI
và TIN TƯỞNG vào
LCTX – Lạy Chúa Giêsu,
con tín thác vào Ngài.
Trên đường lữ hành trần gian, đức tin rất
quan trọng. Thánh Phaolô nói: “Người ta được nên công
chính vì tin, chứ không
phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3:28) Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, có thể gọi là “mối phúc thứ chín,” do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và
chắc chắn rằng “bất
kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng.” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16) Trong tình
trạng “cách ly xã hội” ngày nay, mỗi người có thể tự kiểm chứng
xem đức tin của mình như thế nào khi không thể cùng nhau tham dự Phụng Vụ với cộng
đoàn.
Đức tin chân chính khác với mê tín dị đoan, mặc dù cũng
liên quan niềm tin. Trong niềm
tin lệch lạc có liên quan tử vi. [1] Có người lý luận rằng
tử vi là khoa học,
không có tội. (sic!)
Coi chừng! Tử vi cũng gọi là “tử vi đẩu số,” một hình
thức bói toán để biết trước vận
mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành,
can và chi,… Người ta lập
lá số tử vi với
Thiên bàn, Địa bàn
và các Cung sao – gọi là
“chấm tử vi.” Căn cứ
vào giờ, ngày,
tháng, năm sinh theo âm lịch
và giới tính
để lý giải những diễn biến
xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo
nói tin Chúa mà lòng có tin chưa? Tương lai chúng ta phó
thác trong tay Chúa hay tử vi?
Tin thật trong lòng hay tin bằng môi miệng?
Câu nói đơn giản mà thâm thúy: “Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn.” Đúng
vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái
“lượng.” Rễ càng
sâu thì cây càng vững, loại
cây nào có rễ ăn nổi
thì dễ đổ
khi gặp mưa gió. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không
có chiều sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào
nhoáng bề ngoài mà
thôi. Một thực tế
minh nhiên.
Đề cập cách sống đức tin, Thánh
Faustina cho biết: “Tôi
đã thấy rõ
thánh ý Chúa đang và sẽ
được thực hiện đến từng chi tiết
cuối cùng. Những
nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ
nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề
gì nếu có
những lần công
cuộc dường
như hoàn toàn bị
tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc
lại càng được củng cố hơn nữa.” (Nhật Ký, số 1659) Những cái nhỏ mà quan trọng, vì chính cái nhỏ lại là cái cơ bản thiết yếu.
Thánh Vịnh gia luôn giữ vững niềm tin: “Dẫu
cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn.” (Tv
73:26) Chỉ người nào
có đức tin son sắt
như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức
Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39) Tin vào Chúa là tin vào Tình
Yêu của Ngài, là tín
thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Đức
tin càng trong ngần càng
sâu sắc và mạnh mẽ.
Kinh Thánh kể ngắn gọn nhưng hàm
súc: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần
nghe các Tông Đồ
giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và
cầu nguyện không
ngừng. Mọi người
đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các
tín hữu hợp nhất
với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán
đất đai của
cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ
theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ.
Khi làm lễ bẻ
bánh TẠI TƯ
GIA, họ dùng bữa
với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa,
và được toàn
dân thương mến.
Và Chúa cho cộng
đoàn mỗi ngày
có thêm những người
được cứu độ.” (Cv 2:42-47) Trong thời gian này, mọi hoạt động cũng
xảy ra “tại tư gia” chứ không như trước đây – trong đó
có việc tham dự Thánh
Lễ online. Sinh hoạt gia
đình là cách kiểm
chứng đức tin của tín nhân.
Chỉ một đoạn ngắn gọn
nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội
đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương,
tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống
trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót,
ai cũng thể hiện lòng
thương xót với nhau ở
mọi góc độ và
mọi cấp độ,
không chi li, không so đo, không tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên
mình vì người khác,...
Những ai sống đúng
lòng thương xót như vậy thì chắc
chắn được Thiên Chúa cứu độ.
Điều đó được chứng thực bằng những
hoạt động nhân đạo trong hoàn cảnh
khó khăn giữa cơn
đại nạn này: Máy ATM Gạo, những phần thực phẩm chia sẻ cho những
hoàn cảnh khó
khăn,… Câu nói nhẹ nhàng
mà thấm thía: “Nếu bạn khó khăn, cứ lấy một phần; nếu
bạn ổn, xin nhường cho người khác.”
Nhưng vẫn lấn cấn
nỗi buồn khi thấy có những người còn tham lam, nỡ lòng “cướp” phần của những người
nghèo, đánh cắp lòng
nhân đạo của người
khác. Họ dư tiền
nhưng thiếu (hoặc không có) lòng tự trọng.
Thiên Chúa bất biến, trước sau
như một, mãi mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”
(Tv 118:2-3) Thật vậy,
Thiên Chúa muốn mọi
người đều được hưởng Ơn Cứu
Độ, không muốn
ai phải hư mất. Mỗi chúng ta đều có chung nhiệm vụ phải loan báo LCTX,
chứng tỏ cho mọi
người biết Ngài qua cách sống của mình để tuyên xưng: “Chúa
là sức mạnh tôi,
là Đấng tôi
ca ngợi, chính
Người cứu
độ tôi.” (Tv 118:14)
Đức Kitô Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở
nên đá tảng góc
tường.” (Tv 118:22)
Đó là công trình vĩ đại vô song của
Thiên Chúa. Vì thế, các
tín nhân hiệp nhất
đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng
hoan hỷ!” (Tv
118:24) Chúa Giêsu đã phục sinh, trao ban cho nhân loại mọi thứ để có thể đạt tới Cõi Trường Sinh.
Vui mừng phấn khởi, Thánh
Phêrô xưng tụng: “Chúc
tụng Thiên Chúa
là Thân Phụ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động,
nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để
được hưởng gia tài không thể hư hoại, không
thể vẩn đục
và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời
cho anh em, là những
người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng
ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết.” (1 Pr 1:3-5) Đó là lời chứng của một
người đã trải
nghiệm các cung bậc
sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác. Thánh
Phêrô là nhân chứng sống,
để nhờ đó, chúng ta có thể kiểm chứng và chứng thực đức tin của
mình.
Vừa nhắn nhủ vừa động
viên, Thánh Phêrô nói: “Trong thời ấy, anh em sẽ được
hân hoan vui mừng,
mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách.
Những thử thách
đó nhằm tinh luyện
đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa.
Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin
đã được
tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1 Pr 1:6-7) Lửa thử vàng,
gian nan thử sức. Qua
gian khổ mà vẫn
trung tín thì mới chứng
tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, nhưng miệng nói tín thác vào LCTX mà
lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp
đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú,
nói như vẹt, chứ
trong lòng chưa thực
sự tin tưởng. Vô ích mà thôi, bởi vì “đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2:17 và 26)
Đúng như vậy, chính Chúa Giêsu cũng
đã minh định: “Không
phải bất cứ
ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành
ý muốn của Cha Thầy
là Đấng ngự
trên trời, mới
được vào mà thôi.” (Mt 7:21) Thánh Phêrô lý giải rạch ròi: “Tuy
không thấy Người,
anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan
chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi
đã nhận
được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1 Pr 1:8-9)
Ga 20:19-31 là trình thuật Tin Mừng quen thuộc nói
về tình trạng “cứng lòng tin” của tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện,
nhân vật phản diện
thường không được người ta có cảm tình. Thế
nhưng chúng ta quên rằng,
chính nhân vật phản
diện đó lại
làm “nền” để
nhân vật chính
diện được nổi
bật. Có lẽ Thánh
Tôma cũng là “đích nhắm”
của chúng ta mỗi
khi nói tới đức
tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh hằng năm.
Rất có thể tông đồ Tôma là người sống thực tế, cần
cụ thể, cái gì cũng phải rạch ròi, không thích mơ hồ hoặc lập lờ nước
đôi. Chúng ta cứ
chê ông cứng lòng,
nhưng chúng ta cũng vẫn
cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa thực sự tin vào Kinh Thánh và các
chứng cớ của Giáo
Hội, thế nên
đức tin của chúng
ta đôi khi vẫn “nghiêng
ngả” Trong khi gặp gian
khổ, và chúng ta vẫn
“chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu xám” tò
mò hoặc hiếu kỳ hơn
là “máu đỏ” đức
tin. Như vậy không gọi là cứng lòng
tin thì gọi là gì?
Đến lượt chúng
ta cần kiểm chứng
chính mình ngay trong lúc chống
chọi với con virus Vũ Hán giữa “mùa dịch” này.
Thánh sử Gioan kể: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày
Chúa Giêsu phục sinh, các
môn đệ ở trong phòng
đóng kín cửa vì họ sợ người Do-thái,
trong “khoảng sợ hãi”
đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng
ớn lạnh xương
sống lắm. Nhưng bất ngờ Đức Giêsu
đến, đứng giữa
các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông
xem tay và cạnh sườn.
Các môn đệ vui mừng
vì được gặp
lại Thầy, tỏ tường chứ không nghe kể lại. Rồi Ngài lại nói: “Bình an cho anh
em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy
cũng sai anh em.” Nói
xong, Ngài thổi hơi vào
các ông và bảo: “Anh em hãy
nhận lấy Thánh
Thần. Anh em tha tội
cho ai thì người
ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.”
Thật tuyệt!
Tuy nhiên, lúc đó không
có mặt tông
đồ Tôma, cũng
gọi là
Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với
ông về việc thấy
Chúa nhãn tiền, nhưng
ông nói chắc nịch:
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi
không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn
tay vào cạnh sườn
Người, tôi chẳng có tin.” Coi bộ “căng” dữ nha! Nhưng không, chuyện đâu còn có đó.
Một tuần sau, các tông đồ lại quy tụ, lần
này có ông Tôma. Các cửa
vẫn đóng kín mít. Ngày xưa họ “cách ly” vì sợ người Do Thái. Ngày nay
chúng ta “cách ly” vì sợ dịch
bệnh. Lúc đó Đức Giêsu hiện
đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và
hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa tay ra mà đặt vào cạnh
sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
Ôi chao, ngại hết sức!
Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê! Ngại lắm, thế nên ông vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con!” Chắc là ông không dám kiểm chứng bằng tay đâu.
Đó cũng là một dạng
thú tội. Chúa
Giêsu nói với ông: “Vì
đã thấy Thầy,
nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và Ngài cũng
đang nói với mỗi tín
nhân như vậy trong hoàn
cảnh của chúng ta
ngày nay.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, cả hai lần
Ngài hiện ra đều
vào “ngày thứ nhất
trong tuần,” khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó
cho thấy việc thờ
phượng Chúa ngày Chúa Nhật là việc
quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh trao ban cho các tín
nhân.
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các
môn đệ; nhưng những
dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu
là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa, và để anh em
tin mà được sự
sống nhờ danh Ngài. Về đức tin, Thánh Giacôbê cũng có cách nói tương
tự: “Phúc
thay kẻ đặt
niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân.” (Gr
17:7)
Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa – Thiên
Chúa tình yêu, giàu lòng thương xót, và yêu thương nhân loại đến cùng. (Ga
13:1) Chính vết thương
nơi Thánh Tâm Ngài là ấn
tín của tình yêu
vô biên và vô điều kiện,
là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, Nguồn Mạch Lòng Thương
Xót. Cũng chính Máu và Nước
đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt, [2] và rồi ngay tại chân Thập Giá, khi đối diện với Ông
Giêsu trên Núi Sọ vào
chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, ông đã phải thú nhận rằng Chúa Giêsu “là Con
Thiên Chúa, là người công
chính.” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47) Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi.
Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên
chỉ có thể đến với Chúa Cha
qua Ngài, vì Ngài là Đấng
Cứu Độ duy nhất, là con đường, là sự thật và là sự sống. (Ga 14:6)
Năm nay, niềm vui phục sinh không
tưng bừng bề ngoài,
nhưng vẫn rộn rã
trong lòng mỗi tín
nhân. Lời Thầy Giêsu
nói trước khi Ngài
chịu chết và sống lại vẫn âm
vang: “Anh em đừng
xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không,
Thầy đã nói
với anh em rồi, vì
Thầy đi dọn
chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh
em, thì Thầy lại
đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy
ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3) Lời này là động lực thúc đẩy mạnh mẽ giúp
chúng ta tiến bước
lữ hành cho đến
cuối đường đời, khi hoàn tất mọi sự, đồng
thời là lúc chúng ta được gặp và sống
với Đức Kitô Phục Sinh đời đời.
Lạy Thiên Chúa chí thánh hằng thương xót, xin
hướng chúng
con về phía
Ngài, nơi có sự bình
an đích thực; xin
giúp chúng con vững
tin vào Con Một
Ngài, Đấng
đã chết và
sống lại để
chúng con được sống viên mãn. Cúi xin Ngài gia ân thương
xót chúng con và toàn thế
giới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
[1] Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa chiêm tinh tướng mệnh Đông phương
dùng loại hoa tím này
để chiêm bốc. Người Công
giáo không tin, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định mọi sự.
[2] Đội trưởng Longinus (cổ
ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος,
Longĩnos) kém thị
lực, khi ông cầm
ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo
xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và
được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và
ông đã nên thánh, Giáo hội
có đặt tượng
Thánh Longinô ở Đền
Thờ Thánh Phêrô (Rôma).
|