NHÃN QUAN
Mù Mắt Xác Thân Khổ Đời Thế Tục
Sáng Lòng Tin
Kính Vui Sống Bình An
Nhãn quan là tầm nhìn – nghĩa
đen, với nghĩa bóng
là quan điểm, khả
năng nhận thức, khả năng nhận xét vấn đề một cách
đúng đắn. Nhãn
quan cũng có mức độ
khác nhau, tùy tầm nhìn
sâu rộng hoặc hạn
hẹp. Xét về con mắt,
có thứ khiến người
ta hợp nhãn hoặc
mãn nhãn, nhưng có thứ
lại khiến người ta “chói mắt” hoặc không muốn nhìn thấy.
Con mắt có thể tiết lộ nhiều thứ
độc hại, bởi vì “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là
người xấu, nó
ngoảnh mặt đi và
khinh dể thiên hạ.” (Hc 14:8) Con mắt cũng
là “đường dẫn”
nhiều thứ xấu xa: “Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt? Gặp
chi nó cũng phát khóc vì thèm.” (Hc 31:13) Người ta so sánh: “Mắt láo liên như thằng trộm cắp.” Vì thế, Kinh Thánh khuyên cẩn trọng: “Hãy học cho biết đâu là
khôn ngoan, đâu là sức
mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an.”
(Br 3:14) Trong đó có con mắt.
Không hề đơn
giản!
Với kinh nghiệm sống, tiền
nhân đã xác định:
“Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Điều đó chứng tỏ rằng đôi mắt sáng thực sự là điều cần thiết cho cuộc sống
đời thường. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn
lên rồi mới bị
mù. Người mù
bẩm sinh vẫn cảm
thấy “bình thường”
vì họ không có
khái niệm về chiều
kích hoặc màu sắc. Người lớn lên
mới bị mù chắc chắn cảm thấy
khổ sở hơn vì đã trải nghiệm những khái niệm liên quan cuộc sống.
Đau đâu khốn đấy. Có hai con
mắt mà một mắt có thị lực yếu, bị đau hoặc
bị mờ, thậm chí chỉ là bụi vào
mắt, cũng thấy khổ
lắm rồi chứ nói chi bị mù hẳn. Hai
con mắt mà “khác” một
chút thôi cũng đủ
biết khổ sở, tình trạng “bốn mắt” cũng chẳng thoải mái
gì, khổ suốt, vì
cứ phải lệ thuộc
vào cái kính. Vướng
víu!
Con mắt cũng có khả năng biểu cảm – biết
khóc, biết cười,
biết giận, biết thương. Khó nhận biết khi mắt cười,
nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng
đa dạng: vì vui,
vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nũng nịu, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi
người ta cũng cần
phải biết khóc, vì nước mắt có thể
“cuốn trôi” nỗi
buồn và làm sạch
mắt nhờ chất mặn. Về tâm linh, cần phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên
Chúa và lỗi với tha nhân.
Nhiều lắm, nhất là
trong tư tưởng và
những thiếu sót.
Thật kỳ lạ, con mắt còn
có khả năng “bật mí”
nhiều thứ khác,
thế nên đôi mắt được coi là
“cửa sổ” của tâm
hồn. Qua hai “cửa sổ
bé nhỏ” này, người ta có thể nhận biết người
đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra
vào, thế nhưng
đôi khi cửa sổ
vẫn thực sự quan trọng. Đối với con người,
ai yếu vía sẽ “tự
quay đi” khi nhìn vào mắt
của người “mạnh vía” hơn mình. Dòng nước mạnh sẽ “lướt”
dòng nước yếu.
Tự nhiên vậy thôi!
Tình trạng mù lòa đồng nghĩa với tối tăm,
trái ngược với
sáng sủa. Khiếm
thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người,
nhưng “mù lòa tâm linh” không chỉ tồi tệ mà còn nguy hiểm. Thế nên Chúa Giêsu xác
định: “Tôi
đến thế gian
này chính là để
xét xử: cho người
không xem thấy
được thấy, và kẻ xem thấy lại nên
đui mù!” (Ga 9:39) Thật
đáng sợ nếu
chúng ta bị Ngài
quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa
thành người “có mắt như mù.” Quá đỗi khủng khiếp. Chết
chắc!
Khóc vì buồn, buồn vì tiếc. Nhưng có đáng
tiếc hay không? Ngày xưa,
Thiên Chúa nói thẳng với
Samuel: “Ngươi còn khóc thương Saun cho
đến bao giờ,
khi ta đã gạt
bỏ nó, không cho làm vua cai trị Israel nữa? Ngươi hãy
lấy dầu đổ
đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp
Giesê người
Bêlem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt
làm vua.” (1 Sm 16:1) Thiên Chúa không đề cập con mắt, nhưng chúng
ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động
từ “khóc” – liên quan nước mắt.
Chúng ta biết thông tin qua trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 rằng khi
họ đến, ông Samuel thấy Êliáp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa
xức dầu tấn
phong đang ở trước mặt Đức Chúa
đây!” Thế nhưng
Đức Chúa bảo
ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta
đã gạt bỏ nó.
Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy,
còn Đức Chúa
thì thấy tận
đáy lòng.” Cách nghĩ của Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn với loài người, tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác với tầm nhìn của phàm nhân, kể cả tư tưởng – cách xa một trời một vực.
Theo cách nhìn của con người, chúng
ta thường quan niệm
rằng “quen sợ dạ, lạ sợ áo.” Vì nhìn thấy “con lợn béo” nên
cho rằng “lòng nó
ngon.” Thiên Chúa lại không
có quan niệm niệm như
vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Chiếc áo
không làm nên thầy tu.” Những người coi trọng
bề ngoài là những
người có nội
tâm hời hợt, nông
cạn – dạng “yếu bóng
vía” hoặc “mắt kém.”
Chúng ta thường dựa
vào chức vụ hoặc
bằng cấp (cả đời và đạo) để xác định “trình độ” của ai đó, nhưng
thực sự là “bé
cái lầm” mà thôi.
Rồi ông Giesê cho bảy người con trai đi qua trước
mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức Chúa không chọn những người này.”
Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi rằng các con ông
Giesê có mặt đầy
đủ chưa. Ông Giesê nói còn cháu út đang chăn
chiên. Ông Samuel liền bảo
ông Giesê cho người
đi tìm nó về rồi
mới nhập tiệc. Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc
hung, đôi mắt đẹp
và khuôn mặt xinh xắn.
Đức Chúa nói với
ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi!
Chính nó đó!” Ông Samuel cầm
lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đavít từ ngày đó trở đi.
Đáp ca hôm nay sử dụng cả 6 câu
trong Thánh Vịnh 23 [22].
Đây là Thánh Vịnh
phổ biến, quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng
đề cập lòng tín thác: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu
thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người
đưa tôi tới
dòng nước
trong lành và bổ
sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-4) Đó là cách sống đức tin – phó thác cho Thiên Chúa định liệu mọi sự.
Kinh nghiệm dù nhiều hay ít cũng cho thấy đúng như vậy. Quả thật, khi có
Thiên Chúa đồng hành
thì “dầu qua lũng âm
u” cũng “chẳng sợ gì
nguy khốn,” bởi vì
có “côn trượng Ngài
bảo vệ” thì hoàn
toàn “vững dạ an tâm.”
Thánh Vịnh gia cho biết:
“Chúa dọn
sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân
thù. Đầu con, Chúa
xức đượm
dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương
Chúa ấp ủ tôi
suốt cả cuộc
đời, và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:5-6) Có Chúa là có tất cả, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối. Chẳng phải lo chi, mà
có lo cũng chẳng xong, sợ
cũng chẳng được: “Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên.”
Rất thực tế, Thánh Phaolô
nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì
là lương thiện,
công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Có nghĩa là phải cẩn trọng xem
“điều gì đẹp
lòng Chúa,” chứ “đừng
cộng tác vào những
việc vô ích của
con cái bóng tối,”
đặc biệt là “phải vạch trần những việc ấy ra mới
đúng.” (Ep 5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả
những gì bị
vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì
lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi,
hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi
dậy đi nào! Đức Kitô sẽ
chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14) Có lẽ ai cũng sợ sự vạch
trần hoặc tố giác. Tại sao? Vì đồng
lõa với bóng tối – lãnh địa của ma quỷ.
Mặc dù bóng tối rất mạnh, chỗ nào
không có ánh sáng thì nó phủ
đầy ngay. Nhưng nó mạnh mà yếu, vì
chỗ nào có ánh sáng, dù
chỉ le lói, nó cũng
sẽ phải lui ngay. Bóng
tối dày đặc của cả thế gian
cũng không thể che
khuất một đốm sáng. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và
bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng
ta phải cố gắng “tạo”
ra nó. Có một câu
danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng
nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn
là ngồi nguyền rủa
bóng tối.”
Chỉ là chuyện đời thường tạm
bợ mà chúng ta còn phải
cố gắng thì chuyện
tâm linh càng phải nỗ
lực hơn rất nhiều, không thể gặp chăng hay chớ hoặc
tùy hứng.
Trình thuật Ga 9:1, 6-9, 13-17, 34-38 cho biết rằng
cả Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa
Thầy, ai đã
phạm tội khiến
người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Ngài trả lời: “KHÔNG phải anh ta, cũng CHẲNG phải
cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là
để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta phải thực
hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm
đến, không
ai có thể làm việc được. Bao lâu
Thầy còn ở thế gian, Thầy là
ánh sáng thế gian.” Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là
lúc Ngài được vinh
danh.
Ngài nói rõ ràng, nhưng
người ta vẫn
chẳng “ngộ” ra sự thật, phải chăng vì
không quan tâm? Thế nên
trong cuộc sống, chúng
ta vẫn “chắc nịch”
cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn,
bị xui xẻo, gặp hạn,…) đều là những người tội lỗi.
Có người chỉ
“để bụng,” nhưng có người lại dám “phán” rằng “Chúa phạt!” hoặc “Đáng đời!” Ôi, lạy Chúa, nói theo kiểu phim Hong Kong thì đúng là
“thiện tai” thật!
Cũng chưa xong, người ta còn có thiên kiến – định kiến, thành
kiến. Cùng sự cố như nhau (ví
dụ: bệnh hoạn), với
người không “hợp
ý mình” thì người
ta nói là do Chúa phạt,
nhưng với người “hợp ý mình” thì lại nói rằng đó là Thánh giá Chúa trao.
Đúng là “cái lưỡi không
xương nhiều đường
lắt léo.” Nếp nghĩ
lệch lạc đó chính là động thái “giết người” mà không cần vũ khí. Thật đáng quan ngại!
Sau khi cho các đệ tử biết lý do,
Chúa Giêsu nhổ nước
miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” (Silôác [Siloah] nghĩa là Người Sai Phái. Hồ này ở phía Đông Nam Giêrusalem, cuối thung lũng Tyropeon.) Anh ta liền
đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu
có biệt dược độc
đáo ghê đi, phải
nói là “thần dược”
hoặc “linh dược” mới đúng, mặc dù chỉ là “nước miếng trộn với bùn.”
Hay quá chừng. Mấy lang
băm chớ mà học
đòi theo, kẻo các
pháp sư phải sợ mà
chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ
danh tiếng phải tâm
phục khẩu phục. Thật
là tuyệt chiêu!
Người bàn ra, kẻ tán vào, xì xầm bàn tán theo ý kiến riêng, vì trước kia họ thường thấy
anh ta ăn xin. Có người chắc chắn là chính hắn, có kẻ thì bảo không phải, kẻ khác lại bảo một người giống
hắn. Chín người,
mười ý, lắm
lý nhiều ý, chẳng ai chịu ai. Thế rồi
họ dẫn anh ta đến gặp nhóm Biệt Phái quái đản. Rắc rối là ngày Chúa
Giêsu làm cho anh ta sáng mắt
lại là ngày sabát. Nhóm Pharisêu hỏi thêm một lần
nữa rằng tại sao anh ta sáng mắt, và chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pharisêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa vì Ngài không
giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi
không thể làm
được những dấu
lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế
là họ đâm
ra chia rẽ. Ngộ dữ
nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi? Rồi họ lại hỏi ý
kiến của anh ta về
người đã chữa
mắt. Anh ta nói ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” Quá đúng. Nhưng cũng vì vậy mà nhóm Pharisêu phát tức, máu bốc tới chỏm đầu.
Sự thật rõ ràng, vậy mà người Do Thái vẫn không tin trước đây anh bị mù và bây giờ nhìn thấy, họ đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ
hỏi anh có phải là
con của họ hay không,
cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây
giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ anh bảo
họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do Thái, những người sẵn sàng
trục xuất khỏi hội
đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng
Đức Giêsu là
Đấng Kitô. Thật tồi tệ đối
với những kẻ lắm quyền nhiều chức!
Và một lần nữa, chính họ gọi người trước
đây bị mù
đến và bảo: “Anh hãy tôn
vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Nhưng anh ta bảo rằng
ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì
anh không biết, mà anh
chỉ biết một
điều là trước
đây anh bị mù
nhưng nay anh nhìn thấy
được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm
thế nào mà anh sáng mắt, anh bảo rằng anh
đã nói rồi mà
họ không chịu nghe. Anh thẳng thắn
nói rằng có phải họ cũng muốn làm
môn đệ Chúa Giêsu
hay không. Máu tự ái lại bốc lên nên họ không tiếc lời mắng nhiếc, thóa
mạ: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là
môn đệ của ông
Môsê. Chúng ta biết rằng
Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Đúng là “kẻ ngu mở miệng là tai họa đến gần.” (Cn
10:14) Y như rằng!
Chó đen giữ mực. Kẻ ngu si không
kìm được giận
dữ và để lộ
điều dại dột. (Cn 12:16; Cn 13:16) Anh ta thấy khó
hiểu, vừa gãi
đầu vừa nói:
“Kể cũng lạ
thật! Các ông không biết ông ấy
bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội
lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.
Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù
từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà
đến thì ông
ta đã chẳng làm
được gì.”
(Ga 9:30-33) Cái “nếu” của
anh mù đưa ra thật
độc đáo. Thế
nhưng họ vẫn cố chấp và đối lại: “Trứng khôn
hơn vịt. Mày
sinh ra tội lỗi
ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga
9:34) Và rồi họ liền
trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi. Không còn sĩ diện, “ngu si mà cứ tưởng mình ngay
chính.” (Cn 12:15)
Chuyện anh ta bị trục xuất, Chúa
Giêsu cũng biết, nên
khi gặp lại anh, Ngài
hỏi anh có tin vào Con
Người không, anh
ta hỏi Đấng ấy
là ai để anh ta
tin. Ngài trả lời:
“Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” (Ga
9:37) Vô cùng bất ngờ nhưng
anh lại thấy vui mừng và nói ngay: “Thưa Ngài,
tôi tin.” (Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống
trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thong thường thì
đa số hơn thiểu
số, mặc dù nhiều
người ghét Chúa Giêsu mà anh vẫn có lập trường
rõ ràng của riêng
mình, không chịu “gió
chiều nào ngả theo chiều nấy.” Anh này
thật diễm phúc –
nhờ có đức tin mạnh mẽ.
Chúa Giêsu biết anh ta thật lòng nên
cho biết: “Tôi
đến thế gian
này chính là để
xét xử: cho người
không xem thấy
được thấy, và kẻ xem thấy lại nên
đui mù!” (Ga 9:39) Những
người Pharisêu đang ở đó và nghe vậy liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng
đui mù hay sao?” Lại
tự ái. Đầu óc
“bã đậu” và “nhỏ nhen” như thế thì
chả bao giờ khá
lên được. Đầu
óc gì mà nhỏ như hạt
đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng phải lắc đầu, rồi Ngài thản nhiên bảo họ: “Nếu các
ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội.
Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41) Kẻ chảnh thì thường ngu đột xuất, bây
giờ lại tiếp tục
ngu kinh niên, ngu tầm
cỡ quốc tế luôn. Chán ngán quá!
Thế nhưng có lẽ chúng ta cũng đã có những lần giống như
nhóm Pharisêu, chẳng
“thoáng” hơn họ
bao nhiêu. Và rồi chúng
ta cũng vẫn cứng lòng,
không chịu “cho vào
tai” những lời “thuận
ngôn,” không chịu “cân
nhắc” lời hơn lẽ
thiệt, không chịu
“mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên lời nguyền rủa “có
mắt như mù” cũng
chẳng hề oan ức.
Thế thì đáng lo sợ
lắm!
Chắc chắn rằng mù lòa thì
khổ lắm, khổ
đủ thứ. Chỉ mờ mắt một chút
đã thấy khổ rồi,
càng khổ hơn nếu
cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói
chung là khổ hết ráo
khi “cửa sổ tâm hồn” không bình thường. Thánh Vịnh gia nói: “Mở mắt coi, bạn liền
thấy rõ thế
nào là số phận
bọn ác nhân.” (Tv 91:8) Do đó, luôn phải biết cầu nguyện: “Xin
mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:18)
Thời gian trôi qua mau chóng. Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết đã
qua nửa Hành Trình Mùa
Chay. Mỗi chúng ta
đã “nhìn” thấy gì,
“sáng” thêm chút nào? Có chữ bớt
cận thị, viễn thị hoặc loạn thị chưa?
Cận thị vì ảo
tưởng mà mạo
nhận là mình đạo
đức tốt lành, viễn thị vì không thấy “giỏ tội” của mình ngay trước mặt, và loạn thị vì không lo
đấm ngực mình
mà cứ lo đấm ngực
người khác. Mùa Chay không còn dài thời gian, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường
Mùa Chay đúng ý Chúa muốn.
Lạy Thiên Chúa, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ,
đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình. (Tv 38:2) Xin giúp
con biết yêu thương
chân thành, nhận ra Ngài
nơi tha nhân – những
người được tạo nên giống hình ảnh Ngài, đặc biệt là những người đau khổ,
nghèo khó, hèn mọn.
Xin cho người khác cũng nhận thấy có Ngài thực sự sống động
nơi con. Xin nâng đỡ những người khiếm thị và những người chăm sóc
họ. Con cầu xin
nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng
Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|