BẰNG CHỨNG
Máu Đào Con Chúa Tươi
Màu Cứu
Độ
Lầm Lỗi
Thế Nhân Hóa Sắc Tinh Khôi
Khi chứng kiến Chúa
Giêsu tắt thở, chính viên đại đội trưởng
đứng đối diện với Ngài đã phải xác
nhận: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
(Mc 15:39) Đó là bằng chứng hùng hồn về một
sự thật minh nhiên.
Chết là cuộc chia
ly não nề, trĩu buồn, càng buồn hơn khi cuộc
chia ly đó là chia xa thâm tình Mẫu Tử, nghĩa tình Thầy
Trò. Đối với
Kitô hữu, Thứ Sáu
Tuần Thánh là ngày
Đại Tang. Tuy nhiên,
chính trong nỗi buồn ấy
vẫn đầy ắp niềm hy vọng khi bước
qua cửa sự chết và hân hoan tiến vào Miền Vĩnh Sinh trong tiếng Alleluia
ngân vang!
Ngày Thứ Sáu chết chóc nhưng lại là ngày Thứ Sáu Tốt Lành – Good Friday. Đành rằng chúng ta cũng góp phần bán đứng Đức Kitô, nhẫn tâm đóng đinh
Chúa Giêsu nhiều lần qua
việc phạm tội, hằng ngày chúng ta còn nỡ lòng đóng đinh
nhau bằng nhiều loại
đinh: Chỉ trích, gièm pha, khích bác, ghen ghét, đố kỵ, kỳ thị,…
Trong các loại
đinh đó có nhiều
dạng: đinh gỉ sét, đinh sắc bén, đinh dài thoòng,
đinh xoắn,… thậm chí
có cả đinh tẩm
độc.
Một khi các loại đinh đó đã
“đóng” vào ai thì không dễ
nhổ ra. Có lẽ vì
vậy mà khi thấy các phụ nữ Giê-ru-sa-lem khóc thương
Ngài, Chúa Giêsu dừng lại
với cây Thập Giá
trên vai và nói thật lòng
với họ: “Hỡi chị
em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.”
(Lc 23:28) Và đó cũng chính là lời Chúa Giêsu nhắn
nhủ mỗi chúng ta ngày nay, đồng thời cũng cảnh cáo
chúng ta ngay trong “cuộc khổ
nạn” mà thế giới
đang phải chịu đựng vì virus Vũ Hán.
Đề cập tình yêu thương,
Chúa Giêsu đã xác định:
“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì
bạn hữu của
mình.” (Ga 15:13) Đó là si tình, và điều này đã được Ngài chứng minh vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, lúc 3 giờ chiều trên Đồi Sọ, ngày 3 tháng 4
năm 33 (sau công nguyên). Thời
điểm và ngày tháng Chúa Giêsu chịu chết đã được Tạp chí Địa Chất Quốc tế thực
hiện cuộc nghiên cứu để xác định “ngày giỗ”
của Ngài. Cuộc
nghiên cứu này dựa vào nền tảng Phúc Âm, đồng thời kết hợp với
các tài liệu về
địa chất và thiên văn học, các nhà nghiên cứu đã đủ cơ sở để xác
định như vậy.
Cái chết là bằng chứng về tình yêu
chân chính. Còn mức độ
yêu? Mức độ
yêu là YÊU VÔ HẠN, yêu
như điên, yêu phát khùng, yêu cuồng nhiệt, yêu đến nỗi bị coi là dại dột. Chuyện đời có mối tình của Romeo va Juliet của văn hào
Shakespeare (1582-1616, Anh quốc),
Việt Nam có mối tình
Lan và Điệp, còn
văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp quốc) yêu say đắm cô hàng xóm Adele Foucher nhưng
bị mẹ cấm, sau khi
mẹ mất, ông đã kết hôn với
Adele. Tuy có vợ rồi
nhưng ông lại “phải
lòng” cô Juliette Drouet, và Juliette Drouet đã viết cho ông khoảng 1.700 lá thư tình. Ở đây chỉ muốn nói tới khối tình si của những trái tim yêu hết mình. Có kinh nghiệm tình trường, Victor Hugo đã kết luận: “Chết cho tình
yêu là sống cho tình
yêu.” Chết mà là sống, thật kỳ lạ!
Còn hơn thế nữa, Chúa Giêsu chính
là người si tình
thứ thiệt, độc
nhất vô nhị, mệnh
danh là Người Tôi
Trung mà ngôn sứ Isaia đã
đề cập: “Này
đây, Người Tôi
Trung của Ta sẽ
thành đạt,
sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng
như bao kẻ đã
sửng sốt khi thấy
Tôi Trung của Ta
mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa, cũng vậy,
nó sẽ làm
cho muôn dân phải sững
sờ, vua chúa phải
câm miệng, vì
được thấy
điều chưa ai kể lại, được hiểu
điều chưa nghe nói bao giờ.” (Is 52:13-15) Người Tôi Trung
có những động thái
trái ngược, rất khác
lạ, nhưng có thật chứ không mơ hồ, tưởng tượng.
Và cũng chính Người Tôi Trung ấy “lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc
rễ trên đất khô cằn, chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong
đáng chúng ta ngắm nhìn,
dung mạo chẳng còn
gì khiến chúng ta ưa
thích.” (Is 53:1-2) Không chỉ
vậy, Người Tôi Trung ấy còn “bị
đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ
triền miên và nếm
mùi bệnh tật, như
kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không
đếm xỉa tới.”
(Is 53:3) Đâu ai ngờ
sự thật là “chính người đã mang lấy
những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của
chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị
Thiên Chúa giáng hoạ,
phải nhục nhã ê chề.” (Is 53:4) Đây là “điểm nóng” để chúng ta phải tự chấn chỉnh cách
nhìn của mình đối với tha nhân – dù
đó là ai.
Cuộc đời Người Tôi
Trung là Bản Trường
Ca Đau Khổ, là Liên Khúc Bi Tráng Ca. Thật vậy, họa vô đơn
chí, đau khổ cứ chồng
chất lên đau khổ,
theo phàm tục thì
đó là thất bại ê
chề, thê thảm. Thế nhưng không
phải vậy!
Và rồi Người Tôi Trung
“đã bị đâm vì
chúng ta phạm tội, bị
nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích
cho chúng ta được chữa
lành.” (Is 53:5) Trong tình trạng Người Tôi Trung bị tơi tả như vậy thì
“tất cả chúng ta
lạc lõng như chiên
cừu, lang thang mỗi người
một ngả, nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người mọi tội lỗi
của tất cả chúng ta,” để rồi Người Tôi
Trung tiếp tục “bị
ngược đãi, cam chịu nhục, nhưng chẳng mở miệng kêu
ca, như chiên bị đem
đi làm thịt, như
cừu câm nín khi bị
xén lông, người chẳng
hề mở miệng.” (Is 53:6-7) Lặng lẽ. Lặng thầm.
Nỗi đau thấm sâu.
Nhưng vẫn chưa yên thân mặc dù chịu nhục nhã ê chề đến vậy: “Người
đã bị
ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.
Dòng dõi của người,
ai nào nghĩ tới?
Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân,
người bị
đánh phạt.
Người đã bị chôn cất
giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.” (Is 53:8-9)
Vô cùng kinh hãi, phàm nhân không thể tưởng tượng nổi và không thể chịu đựng được.
Vì thế, luôn cần ơn Chúa phù trợ, cụ thể là
trong cơn hoảng loạn
khắp thế giới vì đại dịch.
Không gì ngoài Thiên Ý với sự quan phòng và tiền định mầu nhiệm:
“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền
nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người
sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường
tồn, và nhờ
người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ
của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công
chính, tôi trung của
Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy
tội lỗi của họ.” (Is 53:10-11) Ý Chúa đã vậy, đáng khâm phục là đức vâng lời của Người Tôi
Trung. Đúng là “Vâng lời
trọng hơn của lễ.” (1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9) Theo ý
Chúa chứ không theo ý
mình, nghĩa là từ bỏ
chính mình.
Bài đọc dài với đủ dạng đau khổ
như thế mà không thấy câu chữ nào
vô nghĩa, người nghe
cũng không cảm thấy
nhàm chán. Thật lạ
lùng! Có màu “sáng” nhất
ở câu cuối cùng:
“Vì thế, Ta sẽ
ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi
phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội
lỗi.” (Is 53:12)
Đó cũng là hệ
lụy tất yếu cho bất kỳ ai trung tín trong
khi chịu gian nan, chịu
đau khổ, chịu những điều trái ý mình.
Dù gặp bao trắc trở, Người
Tôi Trung vẫn trung tín
và kiên tâm cầu nguyện: “Con
ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con.” (Tv 31:2) Ngay cả cái chết cũng không tách Người Tôi Trung khỏi lòng mến yêu Chúa: “Trong tay Ngài, con
xin phó thác hồn con,
Ngài đã cứu
chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín.” (Tv 31:6)
Mặc dù nhận biết mình “nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích đều kinh hãi, tránh xa, bị lãng quên như kẻ chết không người tưởng nhớ, hoá
thành đồ hư vất
bỏ,” (Tv 31:12-13) nhưng Người Tôi Trung “vẫn tin tưởng nơi Chúa,
vẫn dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con. Số
phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi
người bách hại
con. Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.” (Tv 31:15-17) Và giống như Người Tôi
Trung, Thánh Vịnh gia mời
gọi: “Hỡi mọi người cậy trông
vào Chúa, mạnh bạo
lên, can đảm
lên nào!” (Tv 31:25) Điều này càng cần
thiết hơn khi chúng ta đang phải đối mặt với đại
dịch và sống
trong một thế giới phải cách ly như ngày
nay.
Để chia sẻ kinh nghiệm tâm
linh, Thánh Phaolô giải thích:
“Chúng ta có một vị
Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên
xưng đức tin.
Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những
nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng
không phạm tội.
Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa
là nguồn ân sủng để được
xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4:14-16) Qua đó, chúng ta thấy Đức Giêsu
đã mặc xác phàm yếu đuối như chúng
ta để đồng lao
cộng khổ với chúng ta, và đặc biệt là để động viên chúng ta vượt qua mọi “ngưỡng”
đau khổ, cách riêng là vượt qua cửa ải sự chết, nhất là
trong hoàn cảnh hiện tại,
khi đau khổ và tử
thần luôn ở gần.
Thánh Phaolô nói thêm: “Khi
còn sống kiếp
phàm nhân, Đức
Giêsu đã lớn
tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin
lên Đấng có
quyền năng cứu
Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì
có lòng tôn kính. Dầu là
Con Thiên Chúa, Người
đã phải trải
qua nhiều đau khổ mới học được thế
nào là vâng phục;
và khi chính bản
thân đã tới
mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh
cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Dt 5:7-9) Bài học quá đắt giá, nhưng cái gì càng đắt giá thì càng giá trị cao!
Bài Thương Khó là
đoạn Phúc
Âm buồn thảm nhất
trong Kinh Thánh. Người
Tôi Trung Đau Khổ
Giêsu là nhân vật
độc nhất vô nhị, nổi tiếng nhất trong lịch sử xưa
nay và đến mãi
tận thế. Bằng cách
này hay cách khác, càng ngày người ta càng phải
công nhận Con Người
Thiên Chúa ấy, ngay cả
những người cố ý tỏ ra không công nhận
nhưng thực ra trong thâm tâm họ vẫn công nhận. Thánh quốc
Vatican nhỏ bé nhất,
nhưng cần gì thì người ta vẫn phải nhờ giáo hoàng can thiệp. Đó là bằng chứng cụ thể.
Trình thuật Ga 19:1-42 cho biết “chuyến
đau khổ” của Chúa Giêsu bắt đầu từ Vườn Dầu.
Sau Bữa Tiệc Ly, Ngài đi ra cùng với các môn đệ sang bên kia suối Kítrôn, vào một thửa vườn. Giuđa cũng
biết nơi này, vì lâu nay Thầy trò thường
quy tụ ở đó. Ông ta lặng lẽ đi trong đếm tối để làm
điều mờ ám.
Cũng ngay đêm
đó, Giuđa tới
và dẫn một toán
quân với đám thuộc hạ của các thượng tế cùng nhóm
Pharisêu. Họ mang theo đèn
đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy
đến cho mình, nên tiến ra và hỏi
họ tìm ai. Họ thản
nhiên nói là tìm Giêsu Nadarét. Ngài nhận ngay: “Chính tôi đây.” Mới nghe vậy, họ liền lùi
lại và ngã xuống đất. Ngài hỏi lại, họ vẫn nói
là tìm Giêsu Nadarét. Ngài vẫn
nhận mình là người
họ tìm, chấp nhận
cho họ bắt Ngài nhưng Ngài yêu cầu không bắt bất cứ ai đi với
Ngài. Điều này
ứng nghiệm lời Ngài
đã nói trước: “Những
người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
Khi đó, ông Phêrô có sẵn thanh gươm liền
tuốt ra và chém đứt
tai phải của Mankhô, đầy tớ của vị thượng tế. Ngài
bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao, và
giải thích rằng Ngài sẵn sàng uống chén mà Chúa Cha đã trao. Họ bắt Ngài và dẫn Ngài đến ông Khanan, nhạc phụ của thượng tế
Caipha. Chính Caipha đã đề nghị với người Do Thái là “nên để một người chết
thay cho dân thì hơn.” Một ý thâm độc
ẩn giấu trong lời nói có vẻ nhân đạo. Giả tạo!
Mặc dù bị chất vấn và tra khảo, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói thẳng và nói thật chứ không run sợ trước thế lực
của họ, có người vả vào mặt
Ngài, nhưng Ngài vẫn
hỏi vặn lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào;
còn nếu tôi nói
phải, sao anh lại
đánh tôi?” (Ga 18:23) Tất nhiên họ
chẳng nói lại
được gì, mà chỉ “cả vú lấp
miệng em.” Rồi ông Khanan cho giải Ngài đến thượng tế Caipha trong
khi Ngài vẫn bị
trói. Kẻ ác càng
thâm độc thì càng
hèn hạ, dù người khác không có vũ khí
và không chống cự.
Ở ngoài sân lúc
đó, ông Phêrô bị người
ta phát hiện thuộc
nhóm của Chúa
Giêsu nên ông sợ và chối thẳng thừng, không
chỉ một mà tới ba lần. May có tiếng gà gáy sáng, và ông
đã ăn năn.
Người Do Thái lại điệu Chúa Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn Philatô
khi trời vừa mới sáng.
Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà
không ăn lễ Vượt
Qua được. Bề trong không lo mà chỉ lo bề ngoài, thật là tồi tệ. Đến nước
này rồi mà còn
lo sợ nhiễm uế. Giả
hình!
Khi đó, ông Philatô hỏi đủ điều nhưng
Ngài chỉ im lặng.
Chính ông ta cũng nhận
thấy Ngài không có tội
gì và có ý phóng thích Ngài, nhưng ông ta vẫn không dám làm theo tiếng nói lương tâm
vì ngại với đám
đông, sợ mất chiếc
ghế chức tước và quyền lực. Nghe Chúa Giêsu nói về sự thật, ông ta
còn “giả nai” hỏi lại:
“Sự thật là gì?” (Ga 18:38) Bà vợ bảo ông ta đừng nhúng tay vào vụ án xử Chúa Giêsu, ông ta đi lấy nước rửa tay. Hết
nước nói. Các động thái của ông
Philatô cho thấy sự hèn
nhát và cố ý làm ngơ
công lý. Đó là điều
chúng ta phải cảnh
giác khi hành động,
nhất là những gì
liên quan sự thật và
công lý.
Người ta thường tha một phạm
nhân nào đó vào dịp
lễ Vượt Qua theo tục lệ Do Thái. Rồi người ta hùa
nhau xin tha cho tướng cướp
khét tiếng Baraba, nhưng
lại xin giết chết Đức Giêsu. Mới trước đó
không lâu, ở Thành
Giêrusalem, người ta vui
mừng tung hô vạn
tuế Đức Giêsu là “Đấng nhân danh Chúa mà đến” mà giờ
đây lại quyết
xin đóng đinh người mà họ
đã tôn vinh. Lật mặt
như trở bàn tay.
Thế là ông Philatô truyền đem Đức Giêsu
đi và đánh đòn Ngài. Họ hành hạ Ngài
với những kiểu dã
man nhất. Sau đó,
ông Philatô dẫn Chúa
Giêsu ra ngoài cho người
ta thấy Ngài thê thảm
thế nào với vòng
gai trên đầu mà
thôi kết án Ngài. Thế nhưng họ vẫn không
chút mủi lòng, cho rằng Ngài lộng ngôn khi nhận mình là Con Thiên Chúa. Họ càng thấy Ngài bị hành hạ tơi tả thì họ càng vui sướng: “Đóng
đinh nó vào thập
giá!”
Khi nghe họ hô vang lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. Sợ gì?
Sợ mất chức, mất
chức thì mất quyền,
mất cả bổng lộc. Tư lợi to hơn công
ích. Ông ta bảo ông có
quyền tha và có quyền đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, nhưng Ngài nói ngay: “Ông
không có quyền gì
đối với tôi,
nếu Trời chẳng
ban cho ông. Vì thế,
kẻ nộp tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn.” Ông Philatô tìm cách tha Ngài nhưng
vẫn không dám thực hiện vì bị áp lực của đám đông.
Người ta bắt Ngài tự vác lấy thập giá đi đến Núi Sọ. Cùng chung hình phạt đóng đinh vào thập giá với Ngài là hai tên gian phi khét tiếng. Phía trên thập giá có ghi: “Giêsu
Nadarét, Vua dân Do Thái.” Vô tình mà họ đã phải
công nhận Chúa
Giêsu là Vua dân Do Thái. Bảng
chữ đó ghi bằng
đa ngữ: Do Thái, La ngữ và Hy ngữ.
Các thượng tế
của người Do Thái muốn sửa lại, nhưng ông Philatô không muốn thay đổi. Đó
cũng là ý Chúa muốn vậy!
Từ trên Thập Giá, Đức Giêsu trao phó Đức Mẹ cho ông Gioan
chăm sóc, và xin Đức
Mẹ nhận chàng trai Gioan làm con. Nghe những lời trăn trối như
vậy thì hẳn ai cũng
phải mủi động. Biết mọi sự đã
hoàn tất, Chúa Giêsu
kêu lên: “Tôi khát!” Nghe vậy
mà người ta lại
nhẫn tâm lấy miếng
bọt biển có thấm
đầy giấm, buộc vào một cành hương thảo, rồi đưa lên
miệng Ngài. Nhắp xong, Ngài nói: “Tetelestai
– Thế là đã
hoàn tất!” Rồi Ngài gục đầu xuống và trao
Thần Khí. Thế là hết, nhưng chưa chấm dứt.
Lời kêu khát của Chúa Giêsu nhắc chúng ta về niềm khát khao của Ngài dành cho chúng ta là
mỗi chúng ta đều phải nỗ lực NÊN
THÁNH, nhắc nhở chúng
ta yêu mến THÁNH THỂ, đồng thời cũng
nhắc nhở chúng ta đừng làm ngơ trước những nỗi khát khao của tha nhân – nhất là đối với những con người
hèn mọn luôn ở bên chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc.
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do Thái
không muốn để xác
chết trên thập giá trong ngày đại lễ sa-bát. Vì thế họ xin ông Philatô
cho đánh giập ống
chân các người bị
đóng đinh cho họ
mau chết để rồi lấy xác xuống cho kịp trước khi
đêm xuống. Họ
đánh giập ống
chân hai người cùng
bị đóng đinh
với Đức Giêsu.
Khi đến gần Đức
Giêsu và thấy Ngài
đã chết, họ không
đánh giập ống chân
Ngài. Nhưng một người
lính lấy giáo
đâm vào cạnh sườn
Ngài, tức thì,
MÁU cùng NƯỚC chảy
ra. Tứ đó, Nguồn
Suối Lòng Thương Xót tuôn chảy mãi cho đến tận thế để ai nhìn
lên Ngài và thành tâm tín thác thì sẽ được hưởng Ơn Cứu Độ.
Chúa đã hứa thì
chắc chắn như vậy.
Rồi Thánh Thể Đức Giêsu được hạ xuống khỏi
Thập Giá, được
đưa đi an táng theo tục lệ chôn cất
của người Do Thái tại một thửa vườn. Nỗi buồn “dừng
lại” nhưng vẫn âm ỉ trong lòng mọi
người. Tuy nhiên, Ngày Thứ Sáu Buồn này
lại chính là Ngày Thứ Sáu Tốt Lành, Ngày Thứ Sấu Hồng Phúc đối với nhân loại. Chúa Giêsu chịu đau khổ để
chúng ta được
hạnh phúc, Ngài chịu
thua cuộc để chúng ta chiến thắng, Ngài chịu chết để chúng ta
được sống. Chúng
ta tưởng niệm cái
chết của Ngài nhưng
không phải là để thương xót Ngài
mà là thương xót chính số
phận của chúng ta: “Số phận chúng con ở trong tay Ngài, xin giải thoát thế giới khỏi đại
dịch.” (x. Tv
31:16)
Mặc dù là những tội nhân khốn nạn, nhưng thật hạnh
phúc cho chúng ta, vì Thánh Phaolô xác định: “Trong Đức Kitô,
Thiên Chúa đã cho thế
gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa.” (2 Cr 5:19) Thứ Sáu Tuần Thánh là cột mốc đánh dấu lời hứa đó,
như Cựu Ước cũng
đặt vấn đề: “Nếu như Ngài
chấp tội, nào
có ai đứng vững
được chăng?” (Tv 130:3) Thật là đại phúc cho chúng ta, đang chịu án tử mà lại được trắng án. Trên cả tuyệt vời!
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin thương xót và tha thứ cho chúng con. Lạy Thánh Tử Giêsu, chúng con xin lỗi Ngài, cảm tạ Ngài đã cứu độ, xin giúp
chúng con nhổ những
chiếc đinh mà chúng con đóng vào chân tay Ngài, rồi lại đóng vào cuộc đời anh chị em của
chúng con hằng
ngày. Xin Đấng
Cứu Thế Giêsu Kitô cứu độ những người thiệt mạng
vì đại dịch
corona. Chúng con chân thành cầu xin nhân danh Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
|