Ý NGHĨA
CUỘC
ĐỜI
Lá
Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa
Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua
Cuộc đời không là cuộc dạo chơi, mà là
cuộc đấu tranh – khó nhất là chiến đấu với chính
mình, vượt qua “cái
tôi” tồi tệ của mình.
Và người ta vẫn nói
rằng “đời là
bể khổ.” Khổ
đủ thứ, khổ mọi chiều – ngang, dọc, trên,
dưới, cao, thấp, dài, ngắn.
Người ta chỉ
thở dài chứ không thở ngắn. Thở dài thườn thượt vì khổ, biết là khổ mà chẳng ai định nghĩa được
thế nào là khổ một
cách chính xác và thỏa
mãn nhất. Theo cách
tương đối, có
thể tạm hiểu với
công thức giản lược:
Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất
nhiên phải “trừ”
loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều
có vị mặn. Người
ta dễ dàng lấy vạt
áo lau khô những “giọt
mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái
tim mình. Thật vậy, sướng
hay khổ còn do mỗi
người có khái niệm
riêng. Có những triết
lý dễ hiểu, có
những triết lý
khó hiểu, thậm chí
là không thể hiểu: Triết
lý sống động
của Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ rất
đặc biệt.
Chân phước Charles de Foucauld phân
tích chí lý: “Trên thế
giới đau thương này có một niềm vui mà các thánh và các
thiên thần trên
thiên đàng không được hưởng – đó là được cùng đau khổ với người yêu
dấu của chúng
ta. Dù cuộc sống
có gian truân đến
đâu, chuỗi
ngày thê lương của chúng ta có lê thê đến mấy,… chúng ta cũng
đừng bao giờ
rời xa chân Thập
Giá trước
khi Chúa muốn.
Thầy Chí Thánh thật nhân lành đã cho chúng ta, những tâm hồn yêu mến Thập Giá, được cảm nghiệm sự
ngọt ngào của
nó, nếu không
phải luôn luôn,
thì ít ra là vẻ đẹp
và sự cần
thiết của nó.”
Là con người, chắc chắn chẳng
ai chờ đợi niềm đau nỗi khổ, thế
nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt
cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả.
Chúa không khiến
nó mọc lên
trên những cành
quá yếu ớt để
chịu nổi nó.” Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy
cảm ơn trời!
Vì đó là dấu
hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Ý tưởng thâm thúy. Chính đau khổ lại khiến người
ta nên khôn, một sự
thật vô cùng kỳ lạ!
Cuộc sống đời thường
cho thấy rằng những con người có cách sống tốt đẹp là
những người từng
bị thất bại, từng đau khổ, từng tranh
đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được con đường ra khỏi
vực sâu, thoát khỏi
đường hầm. Những con người này có
lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với
cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ biết cảm thông, biết quan tâm chia sẻ và yêu thương sâu
sắc. Rõ ràng không phải tự nhiên mà có, nhưng
phải phấn đấu
không ngừng – tức
là gian nan, vất vả,
đau khổ,...
Quả thật là kỳ diệu đối với triết
lý đau khổ. Cái
xui có sần sùi nhưng
là cái bùi nhùi chùi bóng cuộc
đời. Kinh Thánh cho biết rằng hung tin dồn dập, nhưng ông
Gióp vẫn bình tĩnh.
Ông trỗi dậy, xé
áo mình ra, cạo đầu,
sấp mình xuống
đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về
đó cũng trần
truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc
tụng danh Đức
Chúa!” (G 1:21) Mặc
dù đau khổ đến
tột cùng, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG
buông lời trách móc phạm đến Thiên
Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của
ông thật tuyệt vời.
Ai hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản,
bình an, bình lặng nhưng
êm đềm.
Như để tự an ủi để
vượt qua đau khổ, người ta thường nói:
“Thà một phút
huy hoàng rồi chợt
tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về
Chúa Giêsu, Đấng
nhập thể làm người. Kinh Thánh cho biết cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài
vẫn có được khoảnh khắc huy hoàng
là được thiên
hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa khi vào Thành Giêrusalem.
Và giờ của Ngài
đã đến!
Hôm nay, Giáo Hội sử dụng bài ca
thứ ba trong các Bài Ca
của Người Tôi
Trung, tuy ngắn gọn mà
súc tích: “Đức
Chúa là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng
đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng
sáng Người đánh
thức, Người
đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người
môn đệ.
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng
tháo lui.” (Is 50:4-5) Vẫn
giữ được lòng trung tín trong lúc đau khổ như vậy thì
không dễ chút nào,
đức tin phải thực
sự mạnh mẽ lắm.
Trong đại dịch hiện nay, mỗi
chúng ta đều cần
có đức tin như
vậy để không bị chi phối, không bị hoảng loạn, biết sống liên đới và nâng đỡ nhau, không suy diễn lệch lạc gây ảnh hưởng xấu tới
đức tin chân chính Kitô giáo.
Có điều kỳ diệu là nỗi đau khổ không
làm người ta yếu
đuối mà lại
làm tăng sức chịu
đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ
má cho người ta giật
râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có
Đức Chúa là
Chúa Thượng phù
trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi
biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is
50:6-7) Thật là kỳ diệu, những người
không có niềm tin Kitô
giáo chắc chắn không
thể hiểu được,
và sẽ cho những
người chịu đau khổ là những người điên khùng.
Trong khi đau khổ tột cùng, Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Thân sâu bọ chứ người đâu
phải, con bị
đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu
mỏ buông lời
mỉa mai: Nó cậy
Chúa, mặc Người
cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv
22:7-9) Thách thức quá
lớn, khoảng cô
đơn quá rộng, thật
ê chề nhục nhã
quá đi!
Người ta cảm nhận chí lý: “Phúc
bất trùng lai, họa vô đơn chí.”
Điều đó như
một quy luật muôn
thuở, giống như
định mệnh vậy. Đau khổ này chồng lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác
đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng
cả chân tay, xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp
mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt
thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa,
xin đừng đứng
xa.” (Tv 22:17-20) Không
còn gì để mất nữa,
khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không
ngừng, thế nhưng vẫn
chẳng nghe động tĩnh gì. Trong cơn đại dịch hiện nay, cả
thế giới cũng đang có cảm giác như vậy!
Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một niềm tín thác, vẫn xưng tụng Thiên
Chúa, vì đó là mục đích
sống của tín
nhân: “Con nguyện sẽ
loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và
trong đại hội
dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca
tụng Người
đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Và chẳng có gì tách tín nhân ra khỏi Thiên Chúa thể hiện nơi Đức
Giêsu Kitô. (Rm 8:39)
Sống nhờ hơi thở cầu
nguyện. Cầu nguyện cũng là dưỡng chất tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe
động tĩnh gì,
đó là dấu chỉ chắc
chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn
hiểu được triết lý này thì cần phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo
hoặc vô thần, họ cho đó là
“bùa mê, thuốc lú,” ai
tin như vậy đều
bị họ coi là dại
dột, là dốt nát,
là ngu xuẩn hoặc điên
rồ. Nhưng cái dại đó lại là cái khôn kỳ diệu.
Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích:
“Đức Giêsu
Kitô vốn dĩ là
Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần
thế.” (Pl 2:6-7) Chúa
Giêsu không chỉ tự nguyện
như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.” (Pl
2:8) Đúng là mầu
nhiệm, do đó mà khó hiểu. Tuy nhiên, “khó hiểu” chứ không phải là “không thể
hiểu.” Nghĩa là vẫn
có thể hiểu – hiểu
bằng đức tin và đức mến.
Dù là dạng tình yêu nào thì cũng cần “chất” đau khổ,
có đau khổ mới
chứng tỏ tình yêu chân chính. Đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai
khổ vì yêu, hãy
yêu hơn nữa; chết
vì yêu là sống
trong tình yêu.” Chết
mà là sống. Người
đời mà còn nhận
định được như vậy thì kỳ lạ thật!
Sự đau khổ luôn có giá trị nhất định và
thực sự độc
đáo. Gian nan dẫn
đến thành công, đau khổ đưa tới vinh quang. Tương tự, sự
chết là đường
dẫn tới sự sống, là cửa ngõ mở lối vào cõi trường sinh. Thánh Phaolô kết luận: “Chính
vì thế, Thiên
Chúa đã siêu tôn Người và tặng
ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa
nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời
dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: “Đức
Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Ai tin nhận Ngài sẽ được sống đời
đời. (Ga 3:16; Ga 6:47)
Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem
cũng là lúc Ngài bắt
đầu đi vào cõi đau khổ, rồi từ “biên giới” đầy gian khổ là
Vườn Dầu tiếp
tục dẫn tới “cửa ải” sự chết là
Núi Sọ, thế nhưng từ
Núi Sọ “chết chóc”
ấy lại dẫn tới
cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như
mê cung nhưng lại thú
vị và hấp dẫn, có biết bao người mong được
sử dụng loại bản đồ này, và nhiều người đã
đạt được
mục đích – các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo. Lối hẹp
mà hóa đường
rộng, vị cay đắng trở thành vị ngọt ngào.
Dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, chuyện gì
đến cũng sẽ
đến. Đó là điều tất yếu của cuộc đời. Ngày
Chúa Giêsu được người
ta tiếp đón và chúc tụng nhưng Giáo Hội sử dụng bài thương khó – bộ phim trĩu nặng u buồn.
Một người trong Nhóm Mười Hai, Giuđa Ítcariốt, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ
lúc đó, gã cố tìm
dịp thuận tiện
để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người
ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt
để phân biệt
đâu là phải – trái. Ma lực đó khó cưỡng lại, nên nhiều người chết vì
nó!
Vào ngày thứ nhất trong tuần bánh
không men, các môn đệ
đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt
Qua ở đâu. Ngài dặn
dò họ kỹ lưỡng
từng chi tiết.
Hàng hôn buông xuống. Thời điểm quan
trọng. Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn
đệ. Đang tiệc
vui, bỗng dưng Ngài bảo có người
sẽ nộp Ngài. Các môn đệ ngạc nhiên và buồn lắm, họ hỏi nhau để biết ai là
thủ phạm. Không
ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một
đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi
theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn
cho kẻ nào nộp
Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt
26:23-24) Giuđa chột dạ
nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ
con sao?” Và Ngài xác nhận
là đúng, không sai!
Cũng trong dạ tiệc đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn
đệ và nói: “Anh
em cầm lấy mà
ăn, đây là mình Thầy.”
(Mt 26:26) Rồi Người
cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là
máu Thầy, máu
Giao Ước, đổ
ra cho muôn người
được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đây là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng lại có
nỗi buồn khi Ngài
bảo: “Từ nay, Thầy
không còn uống
thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới
trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29) Buồn thật. Và nỗi buồn đó như
đang thấm vào mỗi chúng ta trong đại dịch Corona này!
Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng
ra núi Ôliu. Bấy giờ
Đức Giêsu nói với
các ông về nhiều
điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy
nói đích danh mình là sẽ
chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy,
con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như
vậy. Nhưng rồi điều
gì đến vẫn cứ
đến. Sự thật là sự thật, và lời
tiên báo cũng ứng
nghiệm.
Bước vào Vườn Dầu – Ghếtsêmani, Ngài
bảo mọi người
ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê
đi theo. Ngài bắt đầu
cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ
nên phải thốt lên:
“Tâm hồn Thầy
buồn đến chết được. Anh em ở lại
đây mà canh thức
với Thầy.” (Mt
26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp
mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có
thể được,
xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý
con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài
vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng, không theo ý riêng.
Khi trở lại chỗ ba đệ tử,
Ngài thấy họ ngủ
say, và Ngài nói: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ
sao? Anh em hãy CANH THỨC và CẦU
NGUYỆN, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng
thể xác lại yếu hèn.” (Mt
26:40-41) Cuộc chiến tâm
linh thật khó
khăn, nhưng không thể
không chiến đấu.
Nói xong, Ngài lại đi cầu nguyện lần
thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống
chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt
26:42) Rồi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc,
mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có
chút men và trời đã
quá khuya. Phàm nhân là thế.
Ngài để cho các
ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ
ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài
đến chỗ các
môn đệ, đúng
lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giờ G đã
điểm!
Tỏ ra tất thản nhiên và lịch sự, Giuđa đến
chào và hôn Thầy, nhưng
đó không là dấu yêu
thương mà là dấu “chỉ
điểm” cho những kẻ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy nên rút
gươm chém đứt
tai Man-khô, đầy tớ
của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu
chữa lành cho gã và bảo Phêrô không nên dùng vũ
khí. Họ liền ập tới
bắt trói Ngài. Thấy
vậy, các môn đệ
tá hỏa và chạy trốn, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo. Ai
cũng nói mạnh, nhưng
cũng chỉ lẻo mép nói suông. Phàm nhân yếu đuối và hèn nhát lắm, đúng là “nói trước bước không
qua.”
Những kẻ thủ ác bắt Đức Giêsu và
điệu đến thượng
tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế,
rồi vào bên trong ngồi
với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
Chúa Giêsu im lặng dù người ta chất vấn đủ thứ.
Bởi vì có nói với
họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với cục đá còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế hống hách
nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Nghe chừng đạo đức lắm
vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Chúa Giêsu phải lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay:
từ nay, các ông
sẽ thấy Con Người
ngự bên hữu
Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm
tràn ly, vị thượng
tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao,
họ liền đồng thanh: “Hắn đáng
chết!” Cố chấp và đồng lõa, thật đáng sợ!
Rồi có kẻ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ khác tát Ngài, họ toa rập với nhau lăng mạ
Ngài.
Cuộc đời có những điều tất yếu,
chuyện gì sẽ
đến rồi cũng đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không
thể vượt qua chính
mình. Thiên hạ thấy ông
nên bàn tán xì xầm, ông
sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu,
và còn thề độc là
không hề quen với người
đang bị hành hạ
bên trong kia. Và rồi có
tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức
Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:34) Ông ra ngoài và bật khóc. Có lẽ từ đó, ông rất sợ tiếng gà
gáy mỗi sáng, nhưng
chắc cũng phải cảm
ơn con gà trống.
Theo thông lệ mỗi dịp lễ lớn,
tổng trấn phóng thích một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy
có một tù nhân
khét tiếng là Baraba.
Người ta đồng ý
thả hắn và cương
quyết giết Đức
Giêsu. Philatô thừa biết
chỉ vì ghen tị mà
họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước
mà ông làm ngơ công lý, vợ ông bảo
đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, và ông “ngây thơ” đi rửa tay để chứng tỏ
mình vô can. Rất rõ
nét thói giả hình, sự hèn hạ và khốn kiếp.
Quả thật, chính Philatô đem
Đức Giêsu vào
trong dinh và tập trung cả
cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng
gai làm vương miện
đặt lên đầu
Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây
sậy. Chúng quỳ gối trước mặt
Người mà nhạo
báng, chúng khạc nhổ
vào Ngài và lấy cây
sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi
điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Mọi thứ diễn tiến đúng
quy trình của những kẻ
mặt người mà lòng dạ ma quỷ.
Dọc con đường lên Núi
Sọ, chúng gặp một người Kyrênê
tên là Simôn, chúng bắt ông
vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ Ngài không thể đến nơi xử tử.
Những người nói mạnh hứa chắc, những người tín cẩn, những người
được chữa lành, những người được ăn no nê, họ ở đâu lúc dầu sôi lửa bỏng thế này? Tại sao chỉ thấy một
mình ông Si-môn ngoại
giáo vác đỡ Thập
Giá cho Ngài? Cuộc
đời là thế,
con người là vậy
ư?
Khi đến Núi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng,
nhưng Ngài chỉ nếm
một chút mà không chịu
uống. Sau khi đóng đinh Ngài vào thập giá, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi ngồi canh giữ Ngài.
Hôm đó, cùng bị đóng
đinh với Ngài là
hai tên cướp ở hai
bên.
Ngay cả những kẻ qua người
lại cũng buông lời
nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục thi nhau chế giễu Ngài vì họ tưởng mình
đã hành động đúng
với cảm giác hả hê chiến thắng. Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và
thách thức Ngài. Vào
hùa với nhau làm việc xấu, thật tồi tệ!
Thật kỳ lạ, trời đang nắng
mà bỗng dưng tối
sầm từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 15 giờ).
Vào giờ thứ chín,
trong nỗi cô đơn,
Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
“Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng
Ngài gọi ông
Êlia, rồi một người
trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển,
thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu
lại kêu một tiếng lớn, rồi trút
linh hồn. Sự tĩnh lặng
như tấm màn phủ
xuống...
Và ngay thời điểm đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé
ra làm hai từ trên xuống dưới, rồi
đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã
an nghỉ bất ngờ trỗi
dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng
và những người
cùng ông canh giữ
Đức Giêsu đều
rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông
này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47) Ít ra cũng biết chân nhận như thế, muộn còn
hơn không. Sự thật
minh nhiên, không thể
chối cãi, dù người
ta cố ý bóp méo cũng không thể.
Ngẫu nhiên mà kỳ lạ: chữ Thắng và
chữ Thua cùng vần T. Ở đời cũng
vậy, có khi cứ tưởng
Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến.
Ước gì mỗi
chúng ta đều như
những chiếc lá luôn xanh biếc đức tin, luôn khiêm hạ và chân thành đón nhận Đức Kitô trong
mọi hoàn cảnh, khi vui đã
đành, khi buồn mới
thực sự có giá trị. Đau khổ làm cho cuộc đời có ý nghĩa lạ lùng lắm.
Trong thời gian này, chúng ta phải “chay” mọi thứ vì
đại dịch Corona, thực
sự là nỗi khổ
niềm đau, nhưng là dịp tốt để chúng ta xét mình để biết thiếu hay thừa
cái gì mà biết thay
đổi cho hợp ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa chí thiện, trong lúc hoạn nạn này chúng con mới cảm nhận giá
trị của đau khổ,
biết thân phận
con người mong manh mà thêm tín thác vào sự quan phòng của Ngài. Xin ban Thánh Linh
để chúng
con có thể hiểu
được triết lý của Thập Giá, nhờ đó mà cố gắng đi xuyên
qua đau khổ và
luôn hướng về
Ngài. Xin giúp chúng con đủ sức chịu đau khổ với Đức
Kitô để
được sống lại với Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
|