HAI CUỘC ĐỜI
(Chúa nhật V mùa Chay, năm A)
Chết Đi Để Rồi
Được Sống Lại
Sống Lại
Rồi Sẽ Vui Trường Sinh
Mỗi người chỉ
có một cuộc đời, nghĩa là không thể rút kinh
nghiệm cho lần khác theo kiểu luân hồi. Và chắc
chắn KHÔNG hề có kiếp luân hồi. Nhưng về tâm
linh, con người có hai cuộc đời, hai lần sống
– đời này và đời sau.
Thế gian có nhiều loại “cuộc,” nhưng có
lẽ đặc biệt
nhất là cuộc
đời, với đủ thứ nhiêu khê. Thế nên luôn phải chiến đấu không
ngừng, người đời
gọi là bể khổ,
Chúa Giêsu bảo phải
vác thập giá.
Khổ đủ kiểu nên phải chiến đấu đủ
thứ. Thánh Augustino phân tích: “Việc suy niệm của chúng ta
về đời sống
hiện tại phải ở trong lời ca ngợi Thiên
Chúa; bởi vì niềm hoan lạc của đời
sống muôn đời mai sau sẽ là lời ca ngợi Thiên Chúa. Ai chưa thực tập điều ấy
ngay từ bây giờ
thì không thể phù
hợp với đời
sống tương lai. Những lời cầu nguyện hằng
ngày của các
tín hữu đền
bồi những sai lỗi sơ sài nhỏ mọn thường ngày của họ, những điều
mà cuộc sống
này không thể tránh
được.” Thánh José Escriva nói: “Bằng những giọt nước
mắt, những giọt nước mắt nam nhi nóng
hổi, anh em có
thể thanh tẩy
được quá khứ và siêu nhiên hóa cuộc sống hiện tại của mình.” Chân
phước Julian Norwich chia
sẻ: “Khi bị trở tính và cô quạnh trong nỗi ngao ngán,
chán chường với
cuộc sống và bực dọc với bản thân, tôi đã nhẫn nại để tiếp
tục sống giữa những khó khăn… và lập tức sau đó,
Chúa lại ban cho linh hồn
tôi niềm an ủi
và thanh thản
trong hoan lạc và vững tin.”
Đúng là đời này
khổ thật!
Cuộc đời cũng là cuộc sống, có sự sống bắt nguồn từ
Thiên Chúa là Nguồn Sống.
(Tv 36:10) Mỗi người đều có hai sự sống: Sự sống thể
lý và sự sống tâm
linh. Sự sống tâm
linh quan trọng vì
đó là sự sống của
linh hồn, mà chính linh hồn mới làm cho thân xác sống, nhưng chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là Nguồn Sống. (Tv 36:10) Chúa
Giêsu đã minh định: “Chính
Thầy là Con
Đường, là
Sự Thật và
là Sự Sống.” (Ga 14:6) Đúng như Thánh
Vịnh gia đã phân
tích: “Chúa ẩn mặt
đi, chúng rụng
rời kinh hãi; lấy
Sinh Khí lại, chúng
tắt thở ngay mà
trở về cát
bụi. Sinh Khí của Ngài, Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài
đổi mới mặt
đất này.” (Tv 104:29-30)
Là người đời nhưng có
những người “biết
sống” rất khôn khéo. B. Brech nhận định: “Điều
đáng sợ
không phải là
chết, mà là sống rỗng tuếch.” Còn Maxwell Winston Stone khuyên: “Đừng nghĩ đến cái
chết về thể
xác mà hãy trả lời
câu hỏi: Bạn
đã HOÀN THÀNH SỨ
MỆNH CỦA CUỘC ĐỜI MÌNH chưa? Nhắc đến cái chết và chuẩn bị cho cuộc hành
trình sang thế giới
bên kia dường
như khiến người ta bị quan, lo sợ. Nhưng
theo nghĩa lạc quan, có một điều mới lạ sắp
đến. Khi đó, bạn không còn cảm giác lo lắng hay sợ hãi nữa.” Rất
độc đáo!
Thật vậy, “chính Ngài ban Sự Sống cho muôn vật, muôn loài,” (Nkm 9:6)
nguyên tổ Ađam là
người đầu tiên
được đón
nhận sự sống: “Đức
Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người,
thổi Sinh Khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7) Được sinh ra làm
người là hồng ân rồi, dù chúng ta như thế nào – thậm chí có người sống đời thực vật,
chứ chúng ta không có quyền đòi hỏi
hoặc chọn lựa: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử,
đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.” (1 Sm 2:6; x. Kn 16:13 và
Tv 30:4) Chắc chắn bất
cứ ai cũng không thoát khỏi tay Ngài. (Tb 13:2; Ed 43:13)
Có bị bệnh mới biết quý
sức khỏe, có gặp nguy hiểm mới nhận
thức sự sống rất cần, cụ thể là
trong tình hình phức tạp
của đại dịch Corona hiện nay. Vì thế, ai cũng phải ý
thức có trách nhiệm bảo vệ sự sống
– cho mình và cho người khác. Sự sống liên quan không
khí, dưỡng khí hoặc ô-xy chúng ta hít thở từng phút, từng giây. Thiếu không khí vài phút thì mọi vật chết hết, cả
sinh vật và động
vật. Chính không khí là đại hồng ân Thiên Chúa trao ban cho mọi loài, chúng ta sử dụng liên tục mà vẫn coi thường, vô ơn
bạc nghĩa, dám làm
ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi
sinh, tiêu diệt sự sống.
Đó là tự hại
chính mình, tức là
tự sát.
Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Êdêkien, chính Thiên Chúa
đã truyền lệnh cho
Israel: “Ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng rằng Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi,
Ta sẽ đưa các
ngươi lên khỏi
huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Các ngươi
sẽ nhận biết
chính Ta là Đức
Chúa, khi Ta mở
huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi
lên khỏi huyệt, hỡi
dân Ta!” (Ed 37:12-13). Được ra khỏi huyệt mộ là thoát khỏi cõi chết, là được sống. Thật là đại phúc nhãn tiền!
Như để giải thích, Thiên
Chúa cho biết: “Ta sẽ
đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi
và các ngươi sẽ
được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi
định cư trên
đất của các
ngươi. Bấy giờ,
các ngươi sẽ
nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm.”
(Ed 37:14) Chúng ta được
Thiên Chúa “thổi hơi”
để ban Thần Khí, nhờ đó mà chúng ta sống. Và còn hơn là sống, bởi vì chúng ta còn được sống dồi dào, (Ga
10:10) đúng như Chúa Giêsu đã hứa. Lời Chúa xác quyết “Ta đã phán là Ta làm” khiến chúng ta an tâm. Quả thật, Ngài rất thẳng thắn và không
bao giờ sai lời. Tuyệt
vời là thế, bởi
vì Thiên Chúa luôn trung tín và yêu thương trọn niềm.
Bất cứ ai ở trong bóng tối là CHẾT, ở trong ánh sáng là SỐNG. Tất cả chúng
ta đã từng “chết”
khi ở trong bóng tối
– bóng tối tội lỗi.
Vì thế, chúng ta
luôn phải van xin: “Từ
vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe
lời con tha thiết
nguyện cầu.”
(Tv 130:1-2) Đó là lời
cầu cấp tốc, lời cầu khẩn cấp, như
tiếng còi vang lên từ
xe cứu thương, cứu hỏa – và còn hơn thế nữa.
Chính điều đó lại là hồng ân, nghĩa là chúng ta biết kịp thời đánh
moóc SOS nên được sống, nhờ Thiên Chúa cứu vớt. Vâng, ước gì mỗi khi gặp hoạn nạn, chúng
ta luôn biết cầu xin và
thành tín: “Ôi lạy
Chúa, nếu như
Ngài chấp tội,
nào có ai đứng
vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.” (Tv 130:3-4) Tuy
nhiên, muốn vậy cũng
không hề dễ dàng
nếu chúng ta không “hết lòng mong đợi và cậy trông ở lời Chúa.” (Tv 130:5) Thực sự muốn được
sống thì phải tâm
niệm rạch ròi: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh
mong đợi hừng
đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc
nơi Ngài chan chứa.
Chính Ngài sẽ cứu
khỏi tội khiên muôn vàn.” (Tv 130:6-8) Và chỉ một mình Ngài mới có thể cứu sinh mà thôi.
Thánh Gioan Eudes so sánh: “Không
khí chúng ta thở,
cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng
ta cũng không cần
thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng
lời cầu nguyện giúp cho chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu.” Chuyện sống – chết liên
quan cả xác và hồn. Cụ thể là
thân xác, nhưng cũng cần
phân biệt “xác
thịt” và “tính xác thịt”. Đôi khi “tính xác
thịt” còn nguy hiểm hơn “xác thịt.” Có lẽ vì thế mà Giáo Hội “đề nghị” lời cầu
nguyện trong mầu nhiệm thứ 5 Mùa Thương:
“Xin cho con biết
đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa.” Đặc biệt là chính Chúa Giêsu cũng
đã cảnh báo: “Tinh
thần thì
hăng say, nhưng thể
xác lại yếu
hèn.” (Mt 26:41; Mc 14:38) Quả thật, không hề đơn giản!
Nếu nói vậy thì có lẽ có thể có người muốn “nổi loạn” và
muốn “kiện” Chúa,
vì cho rằng Ngài
đã tạo nên một dạng thân-xác-yếu-hèn. Ý nói là Chúa đã
“cài đặt” mặc
định (default) như vậy rồi, y như máy
vi tính đã “đóng băng” (Deep Freeze), chúng ta có thay đổi mọi thứ thì nó
cũng trở về “mặc
định” sau khi nó được khởi động lại (restart). Thế nhưng
không phải như vậy.
Lý do? Thứ nhất,
đó là điều mầu
nhiệm, chúng ta không đủ trình độ
để hiểu thấu. Thứ nhì, đó là Thiên
Chúa KHÔNG BAO GIỜ TẠO
ĐIỀU XẤU, vì Ngài là Đấng chí thánh, nơi Ngài CHỈ CÓ ĐIỀU TỐT LÀNH mà thôi.
Tính xác thịt ra sao? Thánh Phaolô cho
biết: “Những ai bị
TÍNH XÁC THỊT
chi phối thì KHÔNG THỂ vừa lòng Thiên Chúa.” (Rm 8:8) Thật nguy hiểm! Nhưng diễm phúc
cho chúng ta bởi vì
chúng ta được làm
“con cái Thiên Chúa,” như Thánh Phaolô giải thích: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô.”
(Rm 8:9) Thế thì trên mức tuyệt vời rồi,
và thực sự mỗi
chúng ta là đền thờ
của Chúa Thánh Thần.
(1 Cr 3:16-17; 1 Cr 6:19)
Liên quan chuyện sống – chết, Thánh
Phaolô vừa giải thích
vừa xác định: “Nếu Đức
Kitô ở
trong anh em thì dầu
thân xác anh em có phải
chết vì tội
đã phạm, Thần
Khí cũng ban cho anh em ĐƯỢC SỐNG, vì anh em đã
được TRỞ
NÊN CÔNG CHÍNH. Lại
nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã
làm cho Đức Giêsu
SỐNG LẠI từ
cõi chết, Đấng
đã làm cho Đức Giêsu sống
lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự
trong anh em mà làm cho thân xác của anh em được SỰ SỐNG MỚI.” (Rm 8:10-11)
Quyền sinh tử thuộc về Thiên
Chúa, không một phàm
nhân nào được làm
hại sự sống của
con người, dù sự
sống đó chưa được sinh ra là một
hài nhi. Đúng như vậy, bởi vì “Thiên Chúa nắm chủ quyền trên mọi xác phàm.” (Đn 14:5) Thật vậy, chính Chúa Cha đã ban cho Đức Kitô quyền trên mọi phàm nhân (Ga 17:12) và trên mọi chi tộc. (Kh 13:7)
Một câu chuyện cổ-tích-có-thật được Thánh sử Gioan kể lại qua trình
thuật Ga 11:1-45 rất thú
vị. Sự thể là
có một người bị
đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania, em trai của hai chị em cô Mácta và Maria (người sau này sẽ xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi – Mt
26:6-13; Mc 14:3-9; Lc 7:36-48; Ga 12:1-8). Anh Ladarô bị đau nặng và không tránh
khỏi lưỡi hái
tử thần. Nhà có
đám tang.
Trước đó, khi thấy em trai bị bệnh nặng,
hai chị em gái cho người đến báo tin buồn cho Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương
mến đang bị đau nặng.” Cách nói đó cho thấy Ladarô rõ ràng là “người mà Chúa Giêsu thương
mến,” vậy mà Ngài
vẫn thản nhiên bảo: “Bệnh này
không đến nỗi
chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên
Chúa: qua cơn bệnh
này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” Chúa Giêsu không dùng từ nào thừa hoặc thiếu, nhưng rất
chính xác và đầy
đủ, vì Ngài biết
Ngài sắp làm gì.
Kinh Thánh cho thấy Chúa Giêsu quý cả ba chị em Mácta,
Maria và Ladarô, nên lần
đó Ngài đã lưu lại thêm hai ngày rồi
mới cùng các môn đệ trở lại Giuđê. Các môn đệ thấy người Do Thái
mới tìm cách ném
đá Thầy, nên muốn can ngăn. Nhưng Ngài
bảo: “Ai đi ban ngày
thì không vấp ngã,
vì thấy ánh sáng
mặt trời. Còn
ai đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình!” [*]
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ladarô, BẠN của chúng ta,
đang yên giấc. Tuy
vậy, Thầy đi ĐÁNH THỨC anh ấy đây.” Các
môn đệ nói: “Thưa
Thầy, nếu anh ấy
yên giấc được,
anh ấy sẽ khoẻ lại.” Họ không hiểu ý của hai từ “yên giấc” mà Ngài sử
dụng, họ cứ tưởng Ngài nói về giấc ngủ bình thường. Thế nhưng Ngài
muốn đề cập SỰ
CHẾT. Và rồi Ngài
nói rõ: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng
ta đến với
anh ấy.” Ôi
chao! Thấy người ta
chết mà lại bảo
là “mừng.” Coi bộ
“căng” thật! Nhưng đúng vậy, Ngài mừng vì Ngài không có mặt ở đó để người ta thêm
tin khi thấy việc Ngài
làm: Cải tử hoàn
sinh cho anh bạn Ladarô.
Cái gì cũng có lý do của
nó!
Nhờ vậy, hôm đó các môn
đệ đã đồng tâm nhất trí muốn “cùng chết với Sư Phụ.” Tốt lắm,
ít ra cũng phải vậy.
Dù CHƯA làm được điều mình muốn thì ít ra cũng biết MUỐN điều mình MUỐN THỰC HIỆN, ý muốn thực sự rất
quan trọng để có thể thực hiện.
Kinh Thánh không nói rõ nhưng
chắc hẳn Ladarô
bệnh nặng lắm nên
mới mau chết như vậy.
Mặc dù đường
không xa, nhưng khi Chúa Giêsu đến nơi thì người ta đã an táng Ladarô
được bốn ngày
rồi. Làng Bêtania cách
Giêrusalem không đầy ba cây
số, nhưng thời
đó cuốc bộ
suốt nên mất nhiều
thời gian. Có nhiều
người Do Thái đến phúng điếu
và chia buồn với
chị em Mácta và Maria, bởi vì nghĩa tử
là nghĩa tận.
Hôm đó, khi nghe tin
Đức Giêsu
đến, cô Mácta liền ra đón Ngài, còn cô
Maria thì cứ ngồi ở
nhà, cứ bình thường, như không có gì
quan trọng. Hay thật, có
lẽ phong cách của cô rất thản nhiên. Nhà hiếu chưa yên chuyện buồn thì lại có chuyện khác. Cuộc đời đúng là rắc rối thật, không
như mình tưởng.
Lòng buồn rười rượi, nhưng
Mácta vẫn tin tưởng
nói với Đức
Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ
điều gì Thầy
xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Ngài bảo: “Em chị sẽ sống lại!” Mácta
thưa rằng cô vẫn tin kẻ chết sống
lại trong ngày sau hết.
Và Ngài nói: “Chính Thầy là sự
sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được
sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Ngài hỏi Mácta có tin như vậy hay không, Mácta mạnh mẽ xác tín: “Con
vẫn tin Thầy là
Đức Kitô,
Con Thiên Chúa, Đấng
phải đến thế gian.” Là một nữ nhi mà có lời tuyên xưng thật tuyệt vời!
Và rồi Mácta đi nói nhỏ với Maria: “Thầy đến
rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe vậy, Maria vội
đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Ngài chưa
vào làng, vẫn ở chỗ
Mácta đã ra đón. Những người Do Thái thấy Maria vội vã đứng dậy đi ra thì cũng đi theo, vì họ tưởng cô ra mộ khóc em. Nhiều sự kiện đan xen nhau
trong ngày hôm đó.
Vừa đến gần Đức
Giêsu, Maria liền phủ
phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con
đã không chết.” Cả hai chị em đều
đặt tình huống
“nếu” với Đức Giêsu. Thật là tội nghiệp hết sức! Thấy
cô khóc, những người
Do Thái đi với cô
cũng khóc, rồi Đức
Giêsu thổn thức
trong lòng và cảm thấy
xao xuyến. Lúc đó chắc là Maria khóc em trai dữ lắm. Rồi Ngài hỏi xác anh ấy
ở đâu. Họ mời
Ngài đến xem, và
Ngài đã khóc. Thấy thế,
người Do Thái bảo
nhau: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người thắc mắc là Chúa Giêsu
đã từng mở mắt
cho người mù mà sao lại không làm cho anh ấy khỏi chết. Nghe họ nói vậy nên Chúa Giêsu lại thổn thức trong lòng.
Thương lắm chứ,
thế nên Ngài đã “chạnh lòng thương” tới ba lần! Rồi Ngài đi tới mộ Ladarô, phiến đá vẫn đậy kín cửa hang. Ngài bảo lấy phiến đá ra.
Mácta bảo nặng mùi
rồi, vì Ladarô đã
an táng được bốn
ngày. Chúa Giêsu nhắc lại
chuyện đức tin. Và không ai dám có ý kiến gì. Họ lăn tảng đá ra...
Lúc đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Lạy
Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con,
con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì
dân chúng đứng
quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai
con.” Nói xong, Ngài kêu lớn
tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” Thật lạ lùng, người chết bước ra
trong khi vẫn còn quấn
vải liệm. Chắc hẳn ai cũng vừa kinh ngạc
vừa sợ hãi. Đức Giêsu bảo:
“Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để
anh ấy đi.”
Hai bà chị cũng ngạc
nhiên không kém, nhưng họ rất vui mừng không chỉ vì em trai sống lại, mà chính họ biết niềm tin của
họ hoàn toàn chính xác: Đúng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phải
đến thế gian này.
Có điều đặc biệt trong
trình thuật Tin Mừng
hôm nay, đó là Thánh sử
Gioan cho biết rằng những người Do Thái
đến đám tang
La-da-rô hôm đó đã chứng
kiến việc Đức Giêsu làm, và có NHIỀU KẺ ĐÃ TIN VÀO NGÀI. Những người đã
tin vào Chúa Giêsu là những người
thực sự diễm phúc. Nhận biết và tin là một hành trình, nhưng không phải ai cũng làm được.
Liên quan đức tin, chợt nhớ lại
một mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu, sau khi phục sinh, đã nói với tông đồ Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người
không thấy mà
tin.” (Ga 20:29) Không thấy
thì khó tin hơn, nhưng khó hơn mà tin thì mới có phúc hơn.
Lạy Thiên Chúa hằng sống, chúng con còn
yếu đuối lắm,
xin thêm đức
tin cho chúng con, bởi
vì không có Ngài thì chúng con không thể làm gì được. (Ga 15:5) Lạy Cha toàn
năng, xin biến
đổi đức tin yếu kém của chúng con thành đức tin mạnh mẽ nhờ
Con Yêu Dấu của
Ngài – Đức
Giêsu Kitô, để
chúng con vẫn mãi
thuộc về Ngài
dù SỐNG hay CHẾT.
Chúng con cầu
xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng
Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Có lẽ vì “người Do Thái tìm cách ném đá Chúa
Giêsu” nên ngày xưa, Chúa Nhật
V Mùa Chay được
các Kitô hữu “thân
thương” gọi là
“lễ ném đá.” Thời đó, cá
|