HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT LỄ LÁ A
- KIỆU LÁ: Mt 21,1-11
-THÁNH LỄ: Is 50,4-7; Pl
2,6-11; Mt 27,11-54
THEO CHÚA VÀO TRONG VINH QUANG NGANG QUA
THẬP GIÁ
I. HỌC LỜI CHÚA
1A. TIN MỪNG KIỆU LÁ: Mt 21,1-11
(1) Khi thầy trò đến
gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê,
phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ
(2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước
mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa
mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa
con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về
cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các
anh, thì trả lời là Chúa cần đến
chúng. Người sẽ gởi lại ngay. (4)
Sự việc đó xảy ra như thế để
ứng nghiệm lời ngôn sứ: (5) Hãy bảo
thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi
đang đến với ngươi, hiền hậu
ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là
con của một con vật chở đồ”. (6) Các môn đệ
ra đi và làm theo lời Đức Giê-su
đã truyền. (7) Các
ông dắt lừa mẹ và lừa con về,
trải áo choàng của mình trên lưng chúng,
và Đức Giê-su cỡi lên: (8) Một đám
người rất đông lấy áo mình trải
xuống mặt đường, một số khác
lại chặt nhành chặt lá mà rải
lên lối đi. (9) Đám đông, người
đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy:
“Hoan hô Con vua Đa-vít ! Chúa tụng Đấng ngự
đến nhân danh Đức Chúa ! Hoan hô trên các
tầng trời”. (10) Khi Đức Giê-su vào
Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên
hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy ?” (11) Đám
đông trả lời: “Ngôn sứ Giê-su, người
Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy”.
1B. TIN MỪNG TRONG THÁNH LỄ: Mt 27,11-54
2. Ý CHÍNH PHỤNG
VỤ CN LỄ LÁ:
Phụng vụ CN Lễ Lá gồm
hai phần:
Phần đầu lễ, bài
Tin Mừng diễn tả cuộc khải hoàn của Đức
Giê-su như một ông vua ngồi trên lưng lừa khải
hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, giữa những tiếng hoan hô tưng
bừng của mọi người: ” Hoan hô con Vua Đa-vít!
Chúc tụng Đấng
ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”.
Nhưng rồi Tin mừng trong thánh lễ thuật lại buổi xử
án Đức Giê-su
và cuộc khổ hình
Người phải vác
cây thập giá lên Núi Sọ, chịu đóng
đinh giữa hai tên
trộm cướp như
một kẻ tội đồ. Người vô tội nhưng đã chịu hình phạt thập giá đau thương
nhục nhã của một tử tội
để đền tội thay cho mọi người chúng
ta.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-6: + Thầy trò
đến gần Giê-ru-sa-lem: Theo Tin Mừng Gio-an (x
Ga 12,1), sáu ngày trước lễ Vượt
Qua, Đức Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách
Giê-ru-sa-lem khỏang gần
3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò
đã đến ở trọ qua đêm tại
Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và
La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê: Giữa
Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê,
nằm dưới chân núi Ô-liu về phía
Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ
đang cột sẵn đó…: Câu này nói
lên tính siêu việt nơi con người Đức
Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không
gian thời gian, thấu suốt tâm can con người
(x. Mt 9,4; Lc 7,39-40). + Một con lừa mẹ đang
cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh:
Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói đến
con vật là lừa mẹ và lừa con. Còn
ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một con lừa
tơ chưa một lần sử dụng, như dành
riêng cho công việc linh thánh này. + “Chúa cần
đến chúng”: Chủ lừa chắc là
chỗ quen biết trước nên Đức Giê-su
căn dặn môn đệ trả lời như vậy.
Từ “Chúa” ở đây ám chỉ ông chủ lừa này đã
tin Người là
Đấng Thiên Sai.
- C 7-9: + Một
đám người rất đông lấy áo mình
trải xuống mặt đường: Dân chúng
ở đây phần lớn là những người
từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt
Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường
vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn
núi Cây Dầu. Những người này phấn
khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy
vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống
trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót
đường và chặt cành cây Ô-liu trải
trên lối đi để bày tỏ lòng trọng
kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai
theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ.
+ Con vua Đa-vít: Dân chúng đã tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít”
khi họ thấy Người làm cho hai người
mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và
truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại
(x. Ga 11,45). Đó là dấu chỉ thời
đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is
29,18-19; 25,7-9). + Hoan hô: Dân chúng nô nức theo sau
và phấn khởi hoan hô Người bằng
lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh 118 (x. Tv 118,25-26).
4. HỎI ĐÁP:
- HỎI 1: Đức
Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của
Người ?
ĐÁP: Đọc Tin Mừng
Mát-thêu, ta có cảm tưởng Đức
Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần gian. Nhưng
thực ra, Người
đã lên Đền thờ ít
là 5 lần quan trọng: Lần 1 khi mới sinh
được 40 ngày (x. Lc 2,22-24). Lần 2 năm
12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền thờ
(x. Lc 2,42). Lần 3,4,5: Trong gần 3 năm rao giảng Tin Mừng,
mỗi năm Đức Giê-su đều lên Đền
thờ dự lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13;
5,1; 12,12), và vào nhiều
lễ khác (x. Ga 7,10.14; 10,22-23).
- HỎI 2: Tại sao
Người không cưỡi ngựa mà lại dùng lừa ?
ĐÁP: Đức Giê-su
ngồi trên lừa con chưa mang ách và chưa
ai cưỡi cho thấy Người là Đấng
Thiên Sai. Vì lừa mẹ ám chỉ dân Do thái
đã từng mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv
15,10), còn lừa con ám chỉ dân ngoại chưa
từng mang ách, giờ đây sẽ được
mang ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của
Đức Ki-tô (x. Mt 11,29-30). Người cưỡi
trên mình lừa thay ngựa để nói lên
sự khiêm tốn và hiếu hòa của Vua Thiên
Sai. Bên Do thái, các bậc vua chúa quan quyền thường
dùng lừa thay vì dùng ngựa. Như
hoàng tử Áp-sa-lon đã chết thảm
khi đang cưỡi lừa (x. 2 Sm 18,9).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến
với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng
lừa” (Mt 21,5).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG TỘT ĐỈNH CỦA CHÚA
GIÊ-SU:
Vào một ngày Chúa
Nhật nọ, BOB lái xe đưa vợ đi mua
sắm một số đồ cần dùng. Hai vợ
chồng bàn nhau vào một tiệm cầm đồ
bình dân để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ
tiệm chỉ cho họ một số hàng quá hạn
cần thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên
xem một cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé
tai chồng nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá
bằng bạc đắt tiền mà sao bà
chủ tiệm lại để giữa các món
hàng rẻ tiền này ?” Sau đó, hai vợ
chồng đã mua được cây Thánh giá
ấy với giá chỉ một đôla ! Về
đến nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau
chùi sạch sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá
cũ kia đã trở nên bóng lộn và giá
trị đã tăng lên cả trăm đôla ! Rồi
BOB trân trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn.
Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo
lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá
và tự nhiên hai giọt nước mắt
từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc
nhiên trước thái độ của con trai và
hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế ?
Bấy giờ cậu bé trả lời như
sau: “Thưa ba, hôm nay ở nhà thờ con học
giáo lý về cây Thánh giá của Chúa
Giê-su. Con biết Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại,
nên đã sẵn
lòng chịu chết trên cây Thánh giá, để
đền tội thay cho chúng ta. Vì thế khi nhìn
thấy cây Thánh giá này, con liền nghĩ
đến tình thưong của Chúa thật quá
lớn lao, và dù con đã cố kìm nén
lại mà tự nhiên nước mắt cứ
chảy ra !”.
2) MỖI NGƯỜI ĐỀU GÓP
PHẦN VÀO VIỆC ĐÓNG ĐINH CHÚA
GIÊ-SU:
Danh hoạ Rembrandt, người Hoà
Lan, sống vào thế kỷ 17, đã để lại nhiều bức
tranh nổi tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là bức tranh "Ba cây thập giá".
Chiêm ngưỡng tác phẩm, hầu như ai cũng chú
ý vào ba cây thập giá ở trung tâm: giữa hai cây thập giá của hai tên gian phi, thập giá của Chúa Giê-su đã nổi bật. Dưới chân
thập giá là một đám đông mà gương
mặt nào cũng biểu lộ sự hận thù
ganh ghét... tác giả như
muốn nói rằng: mọi
người đều góp phần vào việc
đóng đinh Chúa Giê-su trên cây thập giá.
Khi quan sát đám đông, người ta thấy một gương
mặt dường như bị mất hút trong bóng tối, nhưng chỉ cần một
vài nét cũng đủ
để các nhà chuyên môn nhận ra đó là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt là tác giả bức tranh.
Tại sao giữa đám đông đằng đằng sát khí muốn thảm sát Chúa
Giê-su, mà Rembrandt lại chèn
thêm khuôn mặt của mình
vào? Câu trả lời duy nhất
có lẽ là do ông
đã ý thức về tội
lỗi của mình. Rembrandt như muốn thú nhận chính ông khi phạm tội cũng đã gián
tiếp hành hình và treo
Chúa Giê-su trên cây thập giá.
3) TÌNH YÊU CỦA CHÚA TRỔI VƯỢT HƠN TÌNH YÊU
CỦA NGƯỜI PHÀM:
Môn đệ của một vị đạo
sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta xem
ra còn quyến luyến
với tình cảm gia
đình nên nói với
đạo sĩ: "Vợ con của con rất thương
yêu con, nên chắc sẽ
không bằng lòng
cho con thoát tục theo thầy
đâu".
Nghe vậy, vị đạo sĩ muốn
chứng minh cho anh chàng biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ năng chết
giả. Sau khi thực tập thuần thục, vị đạo
sĩ bảo anh hãy về
nhà áp dụng kỹ
thuật chết giả này. Quả thật, anh ta đã áp dụng tuyệt vời bài học chết giả bằng
việc nhắm mắt xuôi tay và ngừng thở, nhưng vẫn có
thể nghe được
tiếng khóc than của
vợ con và người
thân trong gia đình.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến
để phân ưu cùng tang quyến. Sau giây phút tưởng niệm người quá cố, ông bảo với vợ con đang khóc
thương người mới
qua đời như sau: "Tôi có bí quyết để cứu sống người
này, nếu có ai sẵn lòng chết thay thì anh ta sẽ sống lại".
Bấy giờ anh chàng giả chết rất ngạc nhiên khi nghe từng người trong gia
đình anh nêu ra các lý do để từ chối chết thay anh. Sau cùng anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe chính người vợ nghĩa thiết của
anh đã tóm lại quyết
định của mọi người trong gia đình
như sau: "Tôi nghĩ là không ai đồng ý chết thay cho chồng tôi đâu.
Thực ra dù không có anh
ta, thì chúng tôi vẫn có
thể sống được
! ".
3. SUY NIỆM:
1) ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ ĐƯỜNG VÀO VINH QUANG QUA THẬP GIÁ:
Người tín hữu là người chấp nhận đi trên
Con Đường của
Chúa Giê-su: Là đòi phải
bỏ đi ý riêng của
mình để vâng
theo ý Thiên Chúa muốn như
lời cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu được, xin
cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha”, và
như Người đã
dạy các môn đệ: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Mỗi
người tín hữu
chúng ta cần ý
thức rằng: Ai đi
Con Đường Giê-su sẽ không được dừng lại lúc Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem với cành lá, quần áo trải thảm trên đường, và đám đông
hoan hô… nhưng phải trung
thành theo Chúa trên đường thập giá, kết thúc trên Núi Sọ,
chịu chết ô nhục
giữa hai tên trộm
cướp như một kẻ đại gian đại ác.
- Trên đường lên Giê-ru-sa-lem mọi người đều đi
theo Chúa và đều là
môn đệ của Chúa.
Nhưng trên đường
lên Núi Sọ thì
chỉ còn ít người đi theo Chúa. Có những người đã
phản nộp Thầy như
Giu-đa, có người
chối bỏ Thầy như Phê-rô. Còn những môn đệ còn
lại thì đều hèn nhát bỏ Thầy mà chạy trốn…
2) TÔN VINH CHÚA GIÊ-SU
LÀ VUA THIÊN SAI:
- Bài Tin Mừng
khi rước lá thuật lại việc Đức
Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một
vị Vua Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan
hô như đón mừng một ông vua khải hoàn
vào thành, hầu ứng nghiệm lời sấm
của ngôn sứ
Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức Giê-su, nhiều người Do thái
đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để
lãnh đạo dân
đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi Do thái và thiết
lập một Triều Đại Mới, giống như
triều đại của
vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực
ra sứ mệnh cứu
thế của Đức
Giê-su không phải như dân Do thái đang trông đợi.
Người là Đấng Thiên Sai nhưng là
ông Vua “Mục Tử tốt
lành, hiền hậu và
khiêm nhường”. Người
đã xưng mình là Vua trước mặt quan Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai tay
đang bị trói, thân
thể bị đòn
đánh tan nát; khi phải
đứng trước tòa án như một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su
được ghi bằng
dòng chữ viết tắt
“INRI” gắn trên
cây thập giá, nghĩa
là: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”.
- Đức Giê-su chính là Vua nhưng
không phải như một ông
Vua trần tục, đòi
được người
khác hầu hạ, nhưng
là ông Vua Mục Tử
Tốt Lành, hiền hậu
và khiêm nhường:
+ Là Vua Mục Tử: Người biết rõ đàn chiên, yêu thương
mọi con chiên và
chăm sóc từng con,
nhất là sẵn sàng
đi tìm những con đi
hoang, băng bó những
con bị thương tích, âu yếm và vác chúng trên vai mà đưa về đàn. Ngày nay Người yêu thương
đàn chiên Hội Thánh
và yêu đến tột cùng,
khi thiết lập bí
tích Thánh Thể để ở
với Hội Thánh mọi
ngày và trở nên
lương thực thần
linh nuôi dưỡng Hội Thánh. Người
cũng nêu gương khiêm nhường cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy học nơi Người sự
hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
+ Là Vua Hòa Bình: Người
không ngồi trên
ngựa chiến uy quyền
khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, nhưng khiêm tốn ngồi trên con lừa. Người đến
không để kết
án và trừng phạt tội nhân, nhưng để yêu thương, tha thứ
cho những tội nhân
thực lòng sám hối
ăn năn như tha tội
người trộm lành trên cây thập tự. Người là
Vua Mục Tử bảo
vệ đàn chiên và sẵn
sàng chịu chết
để cho chiên được sống và sống
dồi dào.
Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để
đáp lại tình
thương vô biên của
Vua Giê-su?
3) ĐÁP LẠI TÌNH
THƯƠNG CỨU
ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU:
Một số việc các tín hữu chúng ta cầm thực
hiện để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su và xứng
đáng được
Chúa Cha đón nhận
vào Nước Trời đời sau:
+ Siêng năng cầu nguyện:
Lý do Tông đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát
chối Thầy ba lần là vì đã quá tự
tin vào sức riêng hơn là tin cậy vào ơn Chúa giúp, đã
ăn uống no say và không theo lời Thầy dạy:” Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.
+ Luôn vâng theo thánh ý
Chúa Cha: Khi gặp rủi ro, bệnh tật và
những điều trái ý cực lòng,
chúng ta hãy vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán,
tin vào bùa phép và các thứ mê tín khác…
Hãy xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp
nhận những đau khổ không thể tránh khỏi,
coi đau khổ gặp phải
như phương thế đền tội mình và
góp phần cứu rỗi anh em.
+ Tránh cố tình phạm tội như Giu-đa, vì sẽ bị phạt chung số phận
với ma quỷ như lời Chúa phán: “Khốn cho kẻ nộp Con Người.
Thà nó đừng sinh
ra thì hơn”.
+ Sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có lỗi với mình như
lời kinh Lạy Cha, noi gương
Chúa Giê-su đã tha thứ
cho ông Phê-rô sau khi ông chối Thầy ba lần; Hãy năng cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ thù ghét
làm hại mình noi gương
Chúa Giê-su đã xin Cha tha cho những kẻ làm khốn mình.
+ Luôn giữ bình tĩnh và dùng tình thương
để hoán cải kẻ thù, noi gương
Chúa Giê-su đã ứng xử
với Giu-đa khi anh ta đến hôn mặt để nộp Người
cho kẻ thù.
+ Kiên nhẫn chịu đựng
khi bị khích
bác, noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước
những lời hò hét đả đảo của đám đông cuồng nộ.
+ Thực lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương
kẻ trộm lành trên
cây thập tự khi trách
bạn: “Mi chịu cùng
một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao?
Phần chúng ta, bị như thế này là
đích đáng, vì xứng với
tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu có làm điều gì xấu?” và cầu xin Chúa Giê-su: “Lạy ông Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin
nhớ đến tôi
cùng”. Chúa Giê-su đã lập
tức tha tội và ban ơn cứu độ cho anh khi phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên
Thiên Đàng với Ta”.
+ Sau
cùng, mỗi người chúng ta hãy quyết
tâm loại
trừ tính ganh
ghét những
ai hơn mình,
để tránh phạm thêm tội ác khác như các đầu
mục Do Thái xưa
đã ganh ghét giết hại Chúa Giê-su.
4. THẢO LUẬN:
Trước đau khổ thập giá
gặp phải do bản thân,
người khác và do
hoàn cảnh tự nhiên
gây ra, chúng ta phải ứng
xử thế nào để thể hiện đức tin vào tình thương
quan phòng của Thiên
Chúa noi gương Đức
Giê-su?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những
ngày Tuần Thánh này: Vì Chúa đã
lấy thịt mình mà nuôi dưỡng chúng
con, xin giúp chúng con năng nhớ đến những
người nghèo khó để nhường
cơm xẻ áo cho họ. Vì Chúa đã xao
xuyến buồn sầu trong vườn Cây Dầu, xin
giúp chúng con sẵn lòng chấp nhận chén
đắng gặp phải trong cuộc sống. Vì
Chúa đã bị kết án bất công, xin giúp
chúng con dám lên tiếng bênh vực công lý. Vì
Chúa đã chịu xỉ nhục nhạo cười,
xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn chịu
đựng tha nhân. Vì Chúa đã vác cây
thập giá nặng nề, xin giúp những
ai đang đau khổ trên giường bệnh, biết
sẵn sàng vác Thánh giá mà theo chân
Chúa. Vì Chúa đã bị lột áo và
chịu đóng đinh tay chân vào thập giá,
xin giúp chúng con biết đóng đinh tính
xác thịt mình vào thập giá Chúa. Vì
Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá,
xin giúp chúng con biết luôn cầu nguyện điều
tốt cho tha nhân. Vì Chúa đã phục sinh vinh
quang, xin cho chúng con biết đón nhận mọi sự
xảy đến cho mình với niềm cậy trông phó
thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhờ đó,
sau này chúng con hy vọng
sẽ được
tham phần vào hạnh
phúc với Chúa trong Nước Trời muôn đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|