HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A
Ed 37,12-14 ; Rm 8.8-11 ; Ga 11,3-45
TRỞ NÊN NGÔN SỨ
CỦA SỰ SỐNG VÀ TÌNH THƯƠNG
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 11,3-45
(1) Có một người
bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở
Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và
Ma-ri-a. (2) Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức
dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người.
Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là
em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói
với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, người
Thầy thương mến đang bị đau nặng”.
(4) Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: “Bệnh này
không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp
để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn
bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”.
(5) Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng
hai người em là Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy
nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người
còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở.
(7) Rồi sau đó, Người nói với
các môn đệ: “Nào, chúng ta cùng trở
lại miền Giu-đê !”. (8) Các môn đệ nói:
“Thưa Thầy, mới đây người Do thái
tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại
còn đến đó sao ?” (9) Đức Giê-su
trả lời: “Ban ngày chẳng có mười
hai giờ đó sao ? Ai đi ban ngày thì
không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của
thế gian này. (10) Còn ai đi ban đêm, thì vấp
ngã vì không có ánh sáng nơi mình !”.
(11) Người nói những lời này,
sau đó Người lại bảo: “La-da-rô, bạn
của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy
đi đánh thức anh ấy đây”. (12) Các
môn đệ nói với Người: “Thưa
Thầy, nếu anh ấy yên giấc được,
anh ấy sẽ khỏe lại”. (13) Đức Giê-su nói
về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng
Người nói về giấc ngủ thường.
(14) Bấy giờ Người mới nói rõ:
“La-da-rô đã chết”. (15) Thầy mừng cho anh
em, vì Thầy đã không có mặt ở
đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến
với anh ấy”. (16) Ông Tô-ma, gọi là
Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng
môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi
để cùng chết với Thầy !”. (17) Khi
đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô
đã chôn trong mồ được bốn ngày
rồi. (18) Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây
số. (19) Nhiều người Do thái đến
chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì
em các cô mới qua đời. (20) Vừa
được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta
liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì
ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta nói với
Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy
ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng
bây giờ con biết: “Bất cứ điều gì
Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ
ban cho Thầy”. (23) Đức Giê-su nói: “Em chị
sẽ sống lại !” (24) Cô Mác-ta thưa: “Con biết
em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại
trong ngày sau hết”. (25) Đức Giê-su liền phán:
“Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống.
(26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ
phải chết. Chị có tin thế không ?” (27) Cô Mác-ta
đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy
là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải
đến thế gian”. (28) Nói xong, cô đi gọi em là
Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi,
Thầy gọi em đấy !”. (29) Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội
đứng lên và đến với Đức
Giê-su. (30) Lúc đó, Người chưa vào
làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta
đã ra đón Người. (31) Những người
Do thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a
để chia buồn, thấy cô vội vã đứng
dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng
cô ra mộ khóc em. (32) Khi đến gần Đức
Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền
phủ phục dưới chân và nói: “Thưa
Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã
không chết”. (33) Thấy cô khóc, và những người
Do thái đi với cô cũng khóc, Đức
Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.
(34) Người hỏi: “Các người để
xác anh ấy ở đâu ?” Họ trả lời:
“Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”.
(35) Đức Giê-su liền khóc. (36) Người
Do thái mới nói: “Kìa xem ! Ông ta thương
anh La-da-rô biết mấy !” (37) Có vài người
trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở
mắt cho người mù, lại không thể
cho anh ấy khỏi chết ư ?” (38) Đức
Giê-su thổn thức trong lòng. Người
đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một
cái hang có phiến đá đậy lại.
(39) Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá
này đi”. Cô Mác-ta là chị người
chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi
rồi, vì em con ở trong mồ đã được
bốn ngày”. (40) Đức Giê-su bảo: “Nào
Thầy đã chẳng nói với chị
rằng nếu chị tin, chị sẽ được
thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?”. (41) Rồi người
ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước
mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ
Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần
con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng
vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã
nói để họ tin là Cha đã sai con”. (43)
Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh
La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !”. (44) Người chết
liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt
còn phủ khăn, Đức Giê-su bảo: “Cởi
khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi”. Trong số những người Do thái
đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng
kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều
kẻ đã tin vào Người.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su đến
làng Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chết và chôn
được bốn ngày. Gặp hai bà Mác-ta
và Ma-ri-a là chị người chết đang
khóc thương em, Đức Giê-su đã trấn
an họ và truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ. Qua phép
lạ này, Đức Giê-su đã mặc khải
Người chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên
Chúa hằng sống. Người sẽ ban sự
sống và sự sống lại cho những ai
đặt trọn niềm tin nơi Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-5: + La-da-rô: là
tên của người bạn thân với Đức
Giê-su, ở làng Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,3). Ngoài La-da-rô
này, cũng còn một người ăn xin tên
là La-da-rô trong Tin Mừng Lu-ca (x. Lc 16,20). +
Bê-ta-ni-a: Là một làng nằm ở phía
Đông núi Cây Dầu, cách Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây
số (x. Ga 11,18). Đức Giê-su thường
đến trọ tại làng này mỗi khi có
dịp lên Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, còn một Bê-ta-ni-a khác
là nơi Đức Giê-su chịu phép rửa
(x. Lc 16,20). + Mác-ta: là chị lớn trong
ba chị em. Bà có tính năng nổ hướng
ngoại thể hiện khi đón tiếp Đức
Giê-su (x. Lc 10,38-42). + Ma-ri-a: là em của Mác-ta,
có tính trầm lặng hướng nội,
sẵn sàng hy sinh bình dầu thơm quý giá
để xức chân Người (x. Ga 12,1-8). Theo phần lớn các nhà chú giải Thánh Kinh: Bà
Ma-ri-a này không phải là người đàn bà
tội lỗi (x. Lc 7,36-50), không phải là người
phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,3-11), cũng không
phải Ma-ri-a Ma-đa-lê-na được trừ
khỏi bảy quỷ ám (x. Lc 8,2).
- C 6-16: + Mới
đây người Do thái tìm cách ném
đá Thầy: Các môn đệ mang tâm trạng
sợ hãi vì ý thức nguy hiểm: Thầy
có thể bị kẻ thù giết hại tại Giê-ru-sa-lem. + Ban
ngày chẳng có mười hai giờ
đó sao ?: Đức Giê-su quyết tuân theo chương
trình Chúa Cha đã truyền. + La-da-rô, bạn
của chúng ta đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy
đi đánh thức anh ấy đây: Đức
Giê-su dùng chữ “ngủ” để ám chỉ
cái chết, giống như trường hợp
của con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,39). Thánh Phao-lô cũng
coi cái chết chỉ là một giấc ngủ (x.
1 Tx 4,14), là một bước phải vượt
qua đến sự sống lại (x. Ep 5,14). + Thầy
mừng cho anh em, vì Thầy đã không có
mặt ở đó, để anh em tin: Đức
Giê-su mừng vì môn đệ sắp được
dịp chứng kiến Người truyền cho
La-da-rô sống lại, để các ông vững tin
nơi Người.
- C 17-27: + Khi đến
nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn
trong mồ được bốn ngày rồi:
Theo phong tục người Do thái thì người
chết thường được chôn ngay trong ngày
vừa chết (x. Cv 5,6). Người Do thái tin
rằng trong ba ngày đầu, hồn vía người
chết còn lảng vảng gần xác chết. Sang
ngày thứ tư khi xác thối rữa, nó
mới tan đi. Con số bốn ngày ở
đây như muốn nói La-da-rô đã chết thật
sự. + Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ
chết sống lại trong ngày sau hết: Thời
Cựu Ước, nhiều người tin có
sự kẻ chết sống lại (x Đn 12,2-3; 2 Mcb
7,23). Đến thời Đức Giê-su, nhóm
Pha-ri-sêu cũng tin như vậy, nhưng nhóm Xa-đốc
thì không tin (x Cv 23,8). Riêng Mác-ta tuy tin kẻ chết
sẽ sống lại trong ngày tận thế như
nhóm Pha-ri-sêu, nhưng vẫn muốn Đức Giê-su làm
phép lạ cho em được
sống lại ngay lúc này. + Chính Thầy là
sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng
sẽ được sống: Đức Giê-su
là sự sống phát xuất từ Chúa
Cha (x. Ga 5,26). Người làm cho những kẻ
tin Người được sống đời
đời (x. Ga 5,24-25). Người cũng sẽ
ban cho những kẻ tin được sống lại
vào ngày cánh chung, dù xác của họ có
bị tiêu hủy cũng sẽ
được sống lại (x. Ga 5,28-29). + Con vẫn
tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa,
Đấng phải đến thế gian: Mác-ta
tuyên xưng Đức Giê-su chính là Đấng
Thiên Sai (x. Ga 1,19).
- C 28-37: + Thấy cô
khóc, và những người Do thái
đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn
thức trong lòng và xao xuyến: Theo thói
tục của người Do thái, khi có khách
đến viếng xác, thì người nhà
khóc to, và khách cũng sẽ khóc theo.
- C 38-44: + Đức
Giê-su thổn thức trong lòng: Trước sự
đau khổ của tang gia, Đức Giê-su đã tỏ thái độ cảm thông. Nhưng có thể Người khóc vì
sự cứng lòng của những người
hiện diện và vì niềm tin nửa vời
của Mác-ta và Ma-ri-a. + Đem phiến đá
này đi: Phần mộ của người Do
thái giàu có thường khoét vào núi
đá. Sau khi tắm rửa, xác chết
được xức thuốc thơm, cột lại bằng giây
băng vài và phủ khăn liệm, đưa vào
mồ chôn cất rồi lấp ngòai cửa
mồ bằng một
tảng đá lớn,
như hai môn đệ an
táng Đức Giê-su sau này (x Ga 19,40-42). + Thưa
Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở
trong mồ đã được bốn ngày: Tuy
Mác-ta vừa tuyên xưng đức tin, nhưng
vẫn nghi ngờ Ngừơi
có thể làm cho
La-da-rô sống lại. +
Chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa
sao ?: Vinh quang ở đây là quyền năng
Thiên Chúa tỏ hiện qua việc người
sắp cho La-da-rô từ cõi chết sống lại.
+ Đức Giê-su ngước mắt lên và
nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã
nhậm lời con": Người Do thái
khi cầu nguyện thì quay mặt về hướng
Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Còn ở đây
Đức Giê-su lại ngước nhìn lên trời.
Đây là lối cầu nguyện của các Ki-tô hữu
sau này. + Người kêu lớn tiếng: “Anh
La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !": Đức
Giê-su ra lệnh cho người chết sống lại.
Điều đó cho thấy Người có
quyền trên sự chết. + Cởi khăn và
vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi:
La-da-rô sau khi sống lại phải được người
khác cởi khăn và vải liệm. Trái lại, Đức
Giê-su sau khi phục sinh, những băng vải vẫn còn để lại
trong mồ và khăn che đầu Người cũng
được cuốn lại và xếp để
riêng ra một nơi (x. Ga 20,5-7).
4. CÂU HỎI:
1) Ma-ri-a Bê-ta-ni-a có phải
là người đàn bà tội lỗi, người
phụ nữ ngoại tình sắp bị ném
đá hay bà Ma-ri-a Ma-đa-le-na hay không ? 2) Đức
Giê-su nói La-da-rô đang yên giấc có ý ám chỉ
điều gì ? Hai trường hợp khác
tương tự là những trường
hợp nào ? 3) Theo phong tục Do Thái thì người
chết được chôn khi nào ? Ở đây
việc La-da-rô được chôn bốn ngày rồi
mang ý nghĩa gì ? 4) Thời Đức
Giê-su, niềm tin về việc kẻ chết sống lại
giữa hai phái Xa-đốc và Biệt phái
khác nhau ra sao ? 5) Tại sao Đức Giê-su lại
thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy
Mác-ta và người đi theo cô khóc ? 6) Khi
nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì
em con ở trong mồ đã được bốn
ngày" Mác-ta có hòan tòan tin vào quyền
năng phục sinh kẻ chết của Đức
Giê-su không ? 7) Ngày nay các tín hữu hướng về đâu khi cầu
nguyện ? Tại sao ? 8) Tình trạng của La-da-rô sau
khi sống lại khác với tình trạng sống
lại của Đức Giê-su thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết cũng sẽ được sống”
(Ga 11,25).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ MỘT NGƯỜI ĐƯỢC
SỐNG LẠI VỀ PHẦN LINH HỒN:
SI-TA ĐE-LI vốn là một
kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã
nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá
phách cướp giựt. Trong phiên tòa lần thứ
năm, quan tòa đã phải tuyên bố như sau:
“Có phạt anh thêm nữa cũng vô ích ! Nhưng
chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi đã
làm hết cách. Quả thật chúng tôi đã
hoàn toàn thất vọng về anh”.
Vào tù lần này,
ĐE-LI lại ngựa quen đường cũ:
có những hành vi vô kỷ luật và đàn
áp bạn tù yếu thế hơn anh, nên anh đã
bị biệt giam trong hai tuần lễ. Nhưng một
phép lạ đã xảy ra: Khi phải nằm
thu mình trong căn hầm chật hẹp tăm tối,
nằm trên nền
đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm đã phạm. Rồi
sau đó anh bắt
đầu có những
giấc mơ đẹp về Đức Giê-su, mà
anh đã từng học biết khi còn theo học
lớp giáo lý vỡ lòng. Dường
như anh thấy Đức Giê-su đang âu yếm nhìn
anh và mời anh hãy đi theo Người. Rồi
hình ảnh những người từng bị
anh gây thương tích lần lượt lướt
qua tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một
tình cảm dào dạt đối với họ.
Chính tình thương ấy đã tắm
mát và chữa lành những vết thương
trong tâm hồn sơ cứng
của anh. Cảm nghiệm ấy đã dần
dần biến đổi anh nên một người mới
đầy tràn tình yêu của Đức Giê-su.
Sau hai tuần lễ, ĐE-LI
được ra khỏi ngục biệt giam và trở
lại phòng giam thường phạm. Anh không còn
thái độ bắt
nạt bạn tù, trái lại còn sẵn sàng bênh vực những kẻ thân yếu thế
cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học lớp Thánh
Kinh hằng tuần. Anh trở thành người
học trò chăm chỉ và xuất sắc nhất
trong đám bạn tù. Mấy năm sau, khi được
mãn hạn tù, anh đã trở thành chủ
tịch hội “Cải cách chế độ lao tù”.
Khi nói về anh, cha tuyên úy
nhà lao đã nói: “Si-ta Đe-li là một
bằng chứng sống động nhất về
một phép lạ đã xảy ra: Không những
anh là người tội lỗi được
ơn sám hối, mà còn là một tạo
thành mới, một tín hữu tốt lành
thánh thiện và là môn đệ đích thực
của Chúa Giê-su”.
2) TÁC HẠI CỦA THÓI ƯA TRÌ HOÃN:
Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu
với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào
mang cho ông một bức thư
báo cáo về một âm
mưu sát hại ông.
Thay vì mở ngay bao thư
ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi và nói:
- Để mai hãy hay.
Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước
khi bức thư bị khui ra, thì cả chính phủ đã bị bắt sạch không thoát một ai.
Nếu ngày Chúa lại đến không ai biết trước thì mọi người đang sống
phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ đó. Ảo tưởng nguy hiểm nhất
là ảo tưởng
cho rằng, mình còn sống
lâu, còn có đủ thời
gian để kịp hồi tâm sám hối trước khi chết.
3) HIỆU QUẢ ĐÁNG NGỜ CỦA THUỐC TRƯỜNG
SINH:
Vào thời chiến quốc, có người dâng lên Sở vương một viên thuốc trường sinh. Ông
ta bưng viên thuốc này
vào hoàng cung. Quan cảnh vệ
gác cổng liền hỏi: “Thuốc này
có uống được
không ?” Người kia
đáp : “Uống được”.
Lập tức viên quan cảnh vệ liền mở viên thuốc quý ra, cầm lấy cho vào miệng và nuốt đi trước sự ngỡ
ngàng của người
dâng thuốc. Câu
chuyện được báo
cáo lên vua Sở. Vua liền
truyền giam quan cảnh vệ vào ngục vì tội “khi quân” và xử tội phải chết.
Viên quan liền kêu oan rằng: “Hạ thần đã hỏi người dâng thuốc và ông ta nói: ”Thuốc có thể uống được” nên
thần mới dám uống. Thế là hạ thần vô tội mà kẻ có lỗi chính là người dâng thuốc
kia. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó là thuốc trường sinh nghĩa
là ai uống vào sẽ được trường
sinh bất tử. Thế mà thần uống vào lại sắp phải chết sao? Như vậy đây
là “thuốc tử” chứ sao gọi là “thuốc trường sinh được? Điều
đó chứng tỏ
người dâng thuốc
là kẻ nói dối mà sao bệ hạ lại tin hắn?
Vua nghe quan cảnh vệ nói có lý, liền tha chết cho anh.
4) BAO NHIÊU TIỀN CŨNG KHÔNG MUA ĐƯỢC THÊM MỘT NGÀY SỐNG:
Có một người giàu có rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để
dành được cả
một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa
anh ta đi. Lúc này anh ta mới
nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền lớn lao kia. Anh
bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. – Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi xin đưa một nửa để xin sống thêm nửa năm, được không?
- Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
- Vậy… tôi xin giao hết
của cải cho Ngài. Chỉ xin cho tôi một
ngày thôi, có được
không?
- Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi
hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết
lần cuối:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để
viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần
Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng
cảnh báo: “Xin mọi người hãy nhớ điều này: Bao
nhiêu tiền cũng không
mua nổi thời gian
sống thêm một
ngày”.
Hóa ra điều quan trọng nhất ở
đời không phải
là có nhiều tiền
mà là biết cách
sử dụng thời giờ?
Có tiền mà sống ích kỷ thì thật uổng phí. Vậy đang khi còn sống hãy luôn biết phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Đừng để uổng phí
cuộc đời trong những
đam mê “danh, lợi,
thú” chỉ mang lại
thứ hạnh phúc bọt
bèo chóng qua. Thời
gian trôi qua sẽ không
trở lại. Hãy sống sao để đạt
được hạnh phúc Nước Trời vĩnh hằng đời
sau.
3. SUY NIỆM:
1. VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH KẺ
CHẾT: Một số phép lạ kẻ chết sống lại như sau:
Thời Cựu Ước: Ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai bà
góa ở Sa-rép-ta sống lại (x. 1 V 17,17-24); Ngôn
sứ Ê-li-sa cũng phục sinh cho con trai của bà
Su-nêm (x. 2 V 4,32-37).
Đến thời Tân Ước, ông Phê-rô đã cho bà
Ta-bi-tha chết được
sống lại (x. Cv 9,39-42).
Riêng Ðức Giê-su đã phục sinh kẻ chết ít nhất 3 lần: Cho con trai bà
góa ở thành Na-in mới chết đang đem
đi chôn sống lại
(x. Lc 7,11-15); Cho con gái ông trưởng hội đường mới chết đang nằm
trên giường được
trỗi dậy (x. Mt 9,18-26); Cho anh bạn thân La-da-rô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại ra khỏi
mồ (x. Ga 11,34-45).
Sự sống lại của họ nhằm tiên báo
việc Ðức Giê-su sau này sẽ chiến thắng thần chết.
Người sẽ trải qua cái chết và đến ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Ga
20,1-10).
2. ĐỨC GIÊ-SU, CON THIÊN CHÚA LÀM
NGƯỜI CÓ QUYỀN TRÊN SỰ CHẾT:
Tin Mừng CN 5 Mùa Chay cho thấy: Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm: Là người phàm, nên Đức Giê-su đã xúc động thổn thức và
khóc thương người
bạn thân khi đứng
trước mộ của anh (c 33-35), đến nỗi người
ta phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương
La-da-rô biết mấy!” (c
36).
Nhưng là Thiên Chúa, Đức Giê-su đã phán một lời khiến La-da-rô
chết 4 ngày được trỗi dậy. Vì
Người “là sự
sống lại và là sự sống. Ai tin vào
Người thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống
và tin vào Người
sẽ không bao giờ
phải chết” (x. Ga 11,25-26).
3. TRỞ NÊN NGÔN SỨ
SỰ SỐNG BẰNG
THỰC THI GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:
- Trong sứ điệp ngày
Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức
Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ
như sau: “Hãy trở nên những ngôn sứ
của sự sống và tình thương, những
ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại
ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có
nhiều bóng tối của sự chết như:
chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử,
si-đa, ám sát, đặt mìn, tai nạn
giao thông… Những cái chết về thể xác
phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn.
Đó là cái chết Tình Yêu trong lòng con
người ! Cái chết ấy sẽ thắng
thế khi con người sống buông thả, chán
chường và khép kín trong sự ích
kỷ. Nhưng chúng ta có Đức Giê-su là
“Sự Sống Lại và là Sự Sống”.
- Một khi chúng ta liên kết
mật thiết với Đức Giê-su, chúng ta
cũng có thể thông truyền sự sống và
niềm vui cho thế giới, giống như Đức
Giê-su xưa đã trả lại sự sống cho
La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mát-ta
và Ma-ri-a… Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao
tới bất cứ nơi đâu có những
anh em cần được giúp đỡ, những
nơi có những giọt nước mắt
cần được lau khô, những nơi có
những lời cầu cứu đang mong chờ
được đáp ứng”.
- Mỗi ngày chúng ta cần
tích cực chuẩn bị
cho cuộc sống mai sau, bằng một nếp sống bác
ái cụ thể như:
"Vui với người vui và khóc với người khóc”; bằng việc quan tâm
thăm viếng, an ủi
động viên, quảng
đại chia sẻ tinh thần vật chất và
khiêm tốn phục vụ
những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh… Yêu thương không bằng môi miệng nhưng bằng sự quan tâm
tới người nghèo
khổ bệnh tật bất
hạnh đang sống ngay bên rồi đáp ứng các nhu cầu, và phục vụ họ như phục vụ
chính Đức Giê-su.
4. THẢO LUẬN:
Chúng ta cần phải làm
gì để trở thành Ngôn Sứ của
Sự Sống, nghĩa là sẵn sàng chia sẻ
tình thương của Chúa cho đồng bào Việt
Nam, cho những người bệnh tật đau
khổ chung quanh chúng ta ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con Thần
Khí và sức sống của
Chúa.
Xin hãy xâm chiếm lòng trí chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống của
Chúa.
Xin hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng
con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện
trong chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không những bằng lời
nói, nhưng còn bằng
cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa (Mẹ Têrêxa Calcutta).
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|