HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY A
1 Sm 16,1b.6-7.10-13a ; Ep 5,8-14 ; Ga
9,1-41
TRỞ NÊN ÁNH SÁNG CHO THẾ GIAN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
9,1-41
(1) Đi ngang qua, Đức
Giê-su nhìn thấy một người mù từ
thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi
Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội
khiến người này sinh ra đã bị mù.
Anh ta hay cha mẹ anh ta ?” (3) Đức Giê-su trả lời:
“Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ
anh ta phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra
là để các việc của Thiên Chúa được
tỏ hiện nơi anh. (4) Chúng ta phải làm những
việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời
còn sáng. Đêm đến, không ai có thể làm
việc được. (5) Bao lâu Thầy còn ở
thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. (6)
Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng
xuống đất, trộn thành bùn và xức
vào mắt người mù. (7) Rồi bảo
anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa”
(Si-lô-ác có nghĩa là: Người được
sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ,
và khi về thì nhìn thấy được.
(8) Các người láng giềng và những
kẻ trước kia thường thấy anh ta
ăn xin mới nói: “Hắn không phải là
người vẫn ngồi ăn xin đó sao ?” (9)
Có người nói: “Chính hắn đó
!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu !
Nhưng là một đứa nào giống hắn
đó thôi”. Còn anh ta thì quả quyết: “Chính
tôi đây !” (10) Người ta liền hỏi anh: “Vậy
làm sao mắt anh lại mở ra được
như thế ? ”. (11) Anh ta trả lời: “Người
tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức
vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đền
hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã đi, và
sau khi rửa tôi nhìn thấy được”.
(12) Họ hỏi anh: “Ông ấy ở đâu ?” Anh ta
đáp: “Tôi không biết”. (13) Họ dẫn kẻ trước
đây bị mù đến với những người
Pha-ri-sêu. (14) Nhưng ngày Đức Giê-su trộn
chút bùn và làm cho mắt anh ta mở
ra lại là ngày Sa-bát. (15) Vậy, các người
Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh
nhìn thấy được. Anh trả lời:
“Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa
và tôi nhìn thấy”. (16) Trong nhóm Pha-ri-sêu, người
thì nói: “Ông ta không thể là người của
Thiên Chúa được, vì không giữ ngày
sa-bát”; Kẻ thì bảo “Một người tội
lỗi sao có thể làm được những
dấu lạ như vậy ?” Thế là họ đâm
ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù:
“Còn anh, anh nghĩ gì về người đã
mở mắt cho anh ?” Anh đáp: “Người
là một vị Ngôn sứ !”. (18) Người
Do thái không tin là trước đây anh bị mù
nay nhìn thấy được, nên đã gọi
cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: “Anh này có
phải là con ông bà không ? Ông bà nói là
anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây
giờ anh lại nhìn thấy được
?”. (20) Cha mẹ anh đáp:
“Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị
mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ
làm sao nó thấy được, chúng tôi
không biết, hoặc có ai đã mở
mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay.
Xin các ông cứ hỏi nó. Nó đã khôn
lớn rồi, tự nó, nó nói về
mình được”. (22) Cha mẹ anh nói thế
vì sợ người Do thái. Thật vậy,
người Do thái đã đồng lòng
trục xuất khỏi hội đường kẻ
nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng
Ki-tô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó
đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi
nó”. (24) Một lần nữa, họ gọi người
trước đây bị mù đến và bảo:
Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng
ta biết ông ấy là người tội lỗi”.
(25) Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người
tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết
một điều: Trước đây tôi bị mù,
mà nay tôi nhìn thấy được !” (26) Họ
mới nói với anh: “Ông ấy đã làm
gì cho anh ? Ông ấy đã mở mắt cho
anh thế nào ?” (27) Anh trả lời: “Tôi đã
nói với các ông rồi mà các ông vẫn
không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại
chuyện đó nữa ? Hay các ông cũng muốn
làm môn đệ ông ấy chăng ?” (28) Họ liền
mắng nhiếc anh: “Có mày mới là
môn đệ của ông ấy. Còn chúng ta, chúng
ta là môn đệ của ông Mô-sê. (29) Chúng ta biết
rằng Thiên Chúa đã nói với ông
Mô-sê. Nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi
đâu mà đến”. (30) Anh đáp: ”Kể cũng
lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi
đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là
người đã mở mắt tôi ! (31) Chúng
ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những
kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa
và làm theo ý của Người, thì Người
nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề
nghe nói có ai đã mở mắt cho người
mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải
là người bởi Thiên Chúa mà đến,
thì ông ta đã chẳng làm được
gì”. (34) Họ đối lại: “Mày sinh ra tội
lỗi ngập đầu,
thế mà mày lại muốn làm thầy
chúng ta ư ? ” Rồi họ trục xuất anh. (35)
Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất
anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi:
“Anh có tin vào Con Người không ?”. (36) Anh
đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai
để tôi tin ?” (37) Đức Giê-su trả lời:
“Anh đã thấy Người. Chính Người
đang nói với anh đây”. (38) Anh nói: “Thưa
Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước
mặt Người. (39) Đức Giê-su nói:"Tôi
đến thế gian này chính là để xét
xử: cho người không xem thấy được
thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù
!". (40) Những người Pha-ri-sêu đang ở
đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền
lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù
hay sao ?” (41) Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các
ông đui mù, thì các ông đã chẳng
có tội. Nhưng giờ đây các ông nói
rằng: “Chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn
còn !”.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện Đức
Giê-su chữa cho người mù từ khi mới
sinh cho thấy: Đức Giê-su chính là Ánh
Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng
khiêm hạ mới đón nhận được
ánh sáng ấy. Trong cuộc đối thoại, anh
mù đã từng bước hiểu biết
về Người: Từ "một người
tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ
!” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà
đến” (33). Cuối cùng là “Con Người”
(35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng
Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng: “Thưa Ngài,
tôi tin” và sấp mình trước mặt Người
(37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm
muốn tìm Chúa mới gặp được Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-5: + Ai đã
phạm tội khiến người này sinh ra
đã bị mù: Cựu Ước thường
cho rằng: tai nạn,
bệnh tật và đau
khổ là hình phạt do tội lỗi của tội nhân (x. St 3,3)
hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Chính Đức Giê-su có
lần cũng chia sẻ tư tưởng ấy: “Này,
anh đã được khỏi bệnh. Đừng
phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn
hơn trước!” (Ga 5,14). + Là để các
việc của Thiên Chúa được tỏ hiện
nơi anh: Ở đây Đức Giê-su còn
coi bệnh tật như một tai họa mà con người
phải chịu đựng, như một quyền lực
của Sa-tan đang đè trên con người mà
Đức Giê-su đến nhằm giải thoát cho họ
(x. Lc 13,16).
- C 6-9: + Đức
Giê-su nhổ nước miếng xuống đất,
trộn thành bùn và xức vào mắt
người mù: Theo các nhà chú giải
Kinh Thánh: Đức
Giê-su làm như vậy để thử thách đức tin của
người mù.
+ Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa:
Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai
đến”. Như nước hồ của “Người
được sai phái” đã cho người
mù từ thuở mới sinh nhìn thấy thế
nào, thì “Đấng Được Sai” cũng
ban ánh sáng cho những ai đang ngồi trong bóng tối tội
lỗi và sự chết
như vậy.
- C 35-41: +Anh có
tin vào Con Người không? : Sau khi mở con
mắt thể xác để anh mù được
nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở
mắt đức tin cho anh. Vì thế Người
đặt câu hỏi để khơi dậy niềm
tin như Người đã từng làm đối với
người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi
đến thế gian này chính là để xét
xử: Xét xử không phải là lên án (x.
Ga 3,17), nhưng là như ánh sáng chiếu soi để tỏ cho thấy những
điều thầm kín
trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21). + Cho người
không xem thấy được thấy và kẻ xem
thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự
lời cầu nguyện của Đức Giê-su với
Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những
điều này, nhưng lại mặc khải cho
những người bé mọn” (x. Mt 11,25). Chỉ những ai khiêm tốn và thành tâm đón nhận đức tin mới
được nhìn thấy
ơn cứu độ.
4. CÂU HỎI:
1) Đối với các
tín hữu, bệnh tật có phải do tội
lỗi gây ra không ? 2) Việc Đức Giê-su lấy bùn
thoa vào mắt người mù để chữa
bệnh mang ý nghĩa thế nào ? 3) Tại sao
Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù đến
rửa mắt tại hồ Si-lô-ác ? 4) Tại
sao Đức Giê-su lại nói: "Cho người
không xem thấy được thấy và kẻ xem
thấy lại nên đui mù" ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này
chính là để xét xử: cho người
không xem thấy được thấy, và kẻ
xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NĂM ANH MÙ ĐI XEM
VOI:
Ngày xưa ở Ấn độ, có một ông vua muốn bày trò tiêu khiển, liền cho quân lính đi
kiếm năm người
bị mù từ lúc
mới sinh đưa về
triều đình làm trò tiêu khiển cho triều thần. Vua truyền đưa đến
một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù rằng: “Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì
hôm nay trẫm sẽ cho các
ngươi biết. Các
ngươi hãy lại gần
sờ vào voi rồi nói
cho trẫm và quần thần biết voi có
hình thù ra sao. Ai tả con voi
đúng nhất sẽ
được trọng thưởng”.
Anh mù thứ nhất sờ đúng cái
chân của voi liền tâu:
“Tâu bệ hạ! Con voi có
hình thù giống như cột
nhà!” Anh thứ hai sờ
đúng cái tai voi vội
cãi: “Không đúng. Voi giống như một cái quạt lớn”. Anh thứ ba sờ trúng cái vòi lại nói: “Voi giống như một khúc cây ngoằn ngoèo!” Anh thứ tư sờ trúng bụng voi cãi lại:
“Voi giống một tảng
đá lớn, tròn
tròn!” Tới lượt anh
thứ năm sờ trúng đuôi con voi thì cho cả bốn người kia
đều sai và tâu vua: «Voi chỉ như một cái chổi cùn!”
Anh nào cũng quyết liệt bảo vệ ý kiến của mình là
đúng, và bác bỏ ý
kiến của các người kia. Ban đầu họ
còn nói nhỏ, về
sau to tiếng và còn xông vào đánh nhau chí chóe, đang
khi nhà vua và triều thần
ai cũng cười cho sự mù quáng đáng thương
của cả bọn.
Mỗi người mù nói trên chỉ biết được một
phần sự thật mà tưởng rằng mình am tường tất cả và đánh giá những ai không suy nghĩ giống như mình đều sai lạc. Giả như
họ biết khiêm tốn
nhìn nhận kiến thức
hạn hẹp của mình và biết bổ sung bằng ý kiến kẻ khác thì hay biết mấy.
2) VIỆC NGƯỜI THÌ SÁNG, VIỆC MÌNH THÌ QUÁNG:
Có một học giả rất thông thái nhưng lại mắc bệnh đãng
trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một
ông bạn thân. Dù
đang ngồi trên lưng
lừa, nhưng ông vẫn tranh thủ đọc sách
thánh hiền và buông lỏng dây cương. Con
lừa sau khi đi được
một đoạn đường đã theo đường cũ quay trở lại
ngôi nhà của ông.
Thấy lừa dừng lại,
ông học giả tưởng
đã đến nhà
bạn, liền xuống lừa
và đi chung quanh quan sát một vòng ngôi nhà. Ông nói lời phê bình cốt
để bạn ông trong nhà nghe được: "Ông bạn già của ta sao lại cẩu thả như
thế này: Ngôi nhà đã bị xuống cấp gần sập đến nơi mà
chẳng chịu lo sửa
sang gì cả!". Vợ
ông ở trong nhà
nghe vậy liền bước
ra và nói: "Ông nhận
xét thật chính
xác. Nhưng đây là nhà của
ông đó !".
Trong cuộc sống, nhiều người
thường có nhận
định sáng suốt
về chuyện của người khác, nhưng lại mù mờ về những chuyện của
chính mình như người
ta thường nói: “Việc người thì sáng, mà việc mình thì quáng”. (Theo Ernst
Wilhelm Nusselein).
3) NHÌN NGOẠI VẬT THEO LĂNG KÍNH
BẢN THÂN:
Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư
giãn, nên yêu cầu các
quan tìm kiếm một người
biết nói đùa. Người ta đã dẫn
đến cho vua một vị thiền sư.
Nhật hoàng nói: “Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe và ta sẽ không hài tội về lời nói đùa của ngươi”. Thiền sư nói: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói
trước để hạ
thần nói đùa theo”. Nhà vua nói: “Ta thấy nhà ngươi giống y như một con lợn!”
Thiền sư đáp: “Còn hạ thần thì nhìn thấy bệ hạ giống y như Đức Phật!”
– Nhà vua liền thắc
mắc: “Tại sao ta
bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?”- “Tâu
bệ hạ, dễ hiểu
thôi ạ: ai có
tâm của Phật thì
nhìn đâu cũng thấy
Đức Phật; Còn ai có tâm của lợn thì nhìn đâu cũng
thấy lợn!”
4) ĐỪNG SOI MÓI KHÍCH BÁC THA NHÂN:
Có một đôi vợ
chồng kia rủ nhau đi xem một cửa hàng nổi tiếng chuyên trưng
bày tranh thêu lụa. Vừa
bước vào đến
cửa, bà vợ liền
nhìn vào bên trong cửa
hàng và nêu nhận xét
gián tiếp chê bai cửa hàng: "Tranh thêu gì
đâu mà xấu tệ! Như
mặt người đàn bà trong bức tranh kia trông chẳng giống ai!". Ông chồng liền vội bịt
miệng vợ lại và nói: "Đó không phải là tranh thêu đâu, mà
là tấm gương soi
đó. Hình người
phụ nữ bà thấy
kia chính là hình của bà
phản chiếu trong tấm
gương đó ! Tốt
nhất là bà hãy giữ
im lặng dùm, chứ
đừng lên tiếng
phê phán cách hồ đồ!".
Bà vợ cảm thấy
xấu hổ nên đã vội vã bỏ về
ngay sau đó.
Câu chuyện trên cho thấy thói xấu của nhiều người
trong chúng ta: Tuy sáng mắt
nhưng lại có tâm hồn mù tối.
Nhiều khi chúng ta phê phán người khác mà không ngờ đã tự lộ ra chân tướng không tốt của mình, như người ta thường nói:
"Chân mình những lấm
bê bê. Lại cầm bó
đuốc mà rê chân người".
3. SUY NIỆM:
1) AI CŨNG CẦN ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG:
Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người
bạn cùng xóm. Lúc từ
giã ra về, thấy
anh bạn mù không mang theo lồng đèn trên tay, chủ nhà liền lấy
ra chiếc lồng đèn của mình trao cho anh mù. Nhưng anh mù từ chối và nói: “Đối với người mù
như tôi thì ban ngày cũng như ban đêm, ánh sáng có khác gì
bóng tối. Cho nên tôi sẽ không cầm theo chiếc lồng đèn
vì việc làm đó là
vô ích!
Bấy giờ chủ nhà mới giải thích: « Tôi biết anh không cần đến chiếc lồng
đèn để soi
đường. Nhưng nếu anh không có nó trên tay thì
người khác sẽ không nhìn thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào
người anh đấy! »
Anh mù nghe bạn nói có
lý nên đã nhận chiếc
lồng đèn rồi
ra về.
Đi được một đoạn đường,
bất ngờ anh mù bị
một người đi ngược chiều tông vào
suýt té. Anh ta liền tức
giận la mắng: « Bộ anh bị đui hả? Không thấy tôi đang cầm chiếc đèn lồng trên tay hay sao? »
Người kia liền trả
lời: “Đúng là anh đang cầm một chiếc đèn lồng đấy. Nhưng ngọn lửa
bên trong cây đèn đã tắt rồi, nên tôi không nhìn thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!”
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được rằng:
Để đi trong bóng đêm ai cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp người ta thấy đường
đi, thấy người khác và tránh được các trở lực trên đường. Người mù
đi trong đêm tối, tưởng
như không cần ánh
sáng soi đường, nhưng
anh vẫn cần có cây đèn cháy sáng, để người khác khỏi đụng phải anh.
2) CÓ HAI LOẠI MÙ: MÙ MẮT THỂ XÁC VÀ MÙ TỐI TÂM HỒN:
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay
tuy bị mù mắt thể xác nhưng lại sáng lòng hơn những người Pharisêu
luôn tự hào về sự khôn ngoan thông
thái. Người Pha-ri-sêu
bị thành kiến che mờ tâm trí nên
không nhận ra Đức
Giê-su là Đấng cứu
độ và đã tự
loại mình ra khỏi
Nước Trời do Người thiết lập.
Có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh mù tâm hồn như sau:
- Mù quáng do lòng tham không đáy:
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp,
có lòng tham lam muốn chiếm
đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án kể tội Na-vốt đã
dám nguyền rủa Thiên
Chúa và nhà vua, rồi tuyên
án ông phải bị ném
đá chết. Lòng tham
đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven
trở thành mù quáng phạm
tội giết hại người nghèo vô tội để chiếm đoạt
vườn nho của ông ta. (1 V Ch 21)
Mù quáng do thói ganh tị:
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu
thương Đavít, nhưng sau khi Đavít giết được tướng giặc
khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và khải hoàn về thành. Đa-vít được các phụ nữ đi đón rước. Họ vừa múa nhảy theo tiếng reo mừng não
bạt, vừa ca hát
như sau: “Vua Sa-un hạ
được hàng ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn”. Nghe lời ca đó,
vua Sa-un cảm thấy rất
tức giận Đa-vít. Chính do lòng ganh tị đã làm cho vua trở thành kẻ mù quáng, từ lòng yêu thương hóa ra
thù ghét và đã ra tay truy lùng Đa-vít, quyết giết chết bằng được
người anh hùng Đa-vít nầy. (1 Sm, Ch 18).
Mù quáng do dục tình lấn lướt:
Sau khi lên làm vua thay Sa-un, vua
Đa-vít do mê đắm
sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù
quáng và đã phạm tội
nặng giết chồng đoạt vợ (2 Sm, Ch 11).
Tóm lại, do tình dục, do lòng tham, do kiêu căng
ganh tị… mà người ta có thể trở nên mù tối phạm phải những tội
ác không ngờ. Bất
cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù tâm hồn, do không ý thức tình trạng mình đang bị mù, nên không quyết tâm ra khỏi tình trạng mù quáng của mình, và cuối cùng đã bị loại ra khỏi Nước
Trời, giống như các đầu mục dân Do thái khi xưa.
3) HÀNH TRÌNH ĐỨC
TIN CỦA NGƯỜI MÙ TRONG TIN MỪNG:
Niềm tin của người mù vào Đức Giê-su tăng dần theo sự thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh: Thoạt tiên, anh chỉ coi Đức
Giê-su là
một người nào đó qua câu nói: “Người tên là
Giê-su đã trộn một chút bùn, xức
vào mắt tôi, rồi bảo: Anh hãy đền
hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, và
sau khi rửa tôi nhìn thấy được” (Ga 9,11). Sau khi nghe đám đông bàn tán, và bị người Pha-ri-sêu tra hỏi,
anh đã
nêu nhận định: “Người là một vị
Ngôn sứ !” (Ga 9,17). Rồi trước
sự phê phán của các đầu mục, anh đã can đảm bênh vực việc làm của Đức Giê-su: “Nếu không phải là
người bởi Thiên Chúa mà đến,
thì ông ta đã chẳng làm được
gì” (Ga 9,33). Cuối
cùng khi
gặp gỡ Đức Giê-su và được Người cho biết mình chính là Con Người, là Đấng Thiên Sai (x. Ga 9,35-37), thì anh mù
đã lập
tức tuyên xưng đức tin: “Thưa
Ngài, tôi tin”,
và đã thể hiện niềm tin bằng việc sấp mình xuống trước
mặt Người (Ga 9,38).
4) SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY THẾ NÀO?:
- Theo Đức Giê-su thì
mù không phải là một cái tội. Cố tình
bịt tai nhắm mắt do cứng lòng tin
như các đầu mục
Do thái mới là tội. Nhiều khi chúng
ta cũng có thái độ giống như các người này
khi tự bịt tai nhắm mắt, cố tình
không nhìn nhận những khuyết điểm lỗi
lầm của mình. Mùa Chay là mùa sám hối
canh tân. Muốn biết mình ra sao, chúng ta cần có
thời gian tĩnh tâm để hồi tâm sám hối
và quyết tâm canh tân
đời sống.
- Ngoài ra, trong bất cứ
việc gì, chúng ta cần ý thức mình
chỉ nhìn thấy một phần sự thật,
nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi
tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi
nhỏ bé của tảng băng. Còn những
điều ta chưa biết thì to lớn và
chìm sâu dưới mặt nước. Do
đó, khi có quan điểm khác nhau, thay vì
cãi nhau chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe và sẵn sàng chấp nhận ý
kiến đúng đắn
của người
khác để
đạt tới chân
lý.
- Cuối cùng, ta cần
lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, tiếp
thu sự phê bình
của người khác để nhận biết con người
thật của mình, vì thói thường: “Việc người
thì sáng, việc mình thì quáng!”, và
“biết mình biết người, trăm trận
trăm thắng !”. Khi nhận ra con người thật của mình, chúng ta
sẽ phải canh tân
đổi mới để
ngày một nên
hoàn thiện hơn theo thánh
ý Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
Trong Mùa Chay này, Bạn
sẽ làm gì để nhận ra con người
thực của mình và quyết tâm tu sửa
các thói hư tật xấu để ngày càng
nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn
?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU: hiện
nay còn biết bao người đang mù chữ,
mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất
là đang cố tình
bịt tai nhắm mắt giống như những người Pha-ri-sêu xưa. Trong Mùa Chay này,
xin cho chúng con biết dành thì giờ
tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người
thật của mình.
Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa
để yêu mến Chúa hơn, biết rõ con
để không còn dám tự mãn, nhưng quyết tâm tu sửa các
thói hư để ngày một nên hoàn thiện giống Chúa nhiều hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|