ĂN
CHAY
Kiêng cữ
chung các loại ẩm thực
là cách nói phổ biến
đối với nhiều người Teutonic (Teuton là một bộ lạc người Đức
xuất hiện trước khi có tên gọi chính thức là Đức quốc). Một số từ rút ra
từ ngôn ngữ gốc mà vẫn giữ được ý nghĩa
gốc. Jejunium là tiếng Latin, nghĩa là “ruột động vật luôn trống rỗng.” Sự kiêng cữ thay đổi tùy
theo mức hạn chế
về việc sử dụng đồ ăn và
đồ uống. Cũng
có thể có nghĩa
kiêng cữ các loại ẩm thực trong một thời
gian nào đó.
Cũng vậy
đối với ý nghĩa việc ăn chay được Giáo Hội quy định trước khi rước
lễ (ăn chay tự nhiên). Cũng có thể có nghĩa là kiêng cữ mọi đồ ăn và
đồ uống như
được quy định bởi sự chuẩn bị
về thể lý hoặc
tinh thần đối với mỗi cá
nhân, cũng được
coi là ăn chay về
tinh thần hoặc triết lý.
Theo cách như vậy,thuật ngữ được hiểu
là việc đền tội
phổ biến đối với nhiều cộng đồng
tôn giáo trong Giáo Hội.
Cuối cùng, khi chấp
nhận nghiêm ngặt
theo thuật ngữ này, việc ăn chay diễn tả sự kiêng cữ thực phẩm, và như
vậy là hành động điều độ theo luật tự
nhiên và sự hoàn hảo theo sự đòi hỏi của Giáo luật.
Trong Kitô giáo ngày xưa, người Eustathian không chịu bị bắt buộc, vì các
Kitô hữu nào
hoàn hảo thì mới ăn chay; họ bị công
nghị Gangra kết án
năm 380, điều này
đã được xác nhận ngẫu nhiên theo truyền thống xưa về việc ăn
chay theo Giáo Hội.
Ngược với sự xác nhận vô căn cứ của các thành viên này, các nhà
luân lý vẫn cho rằng luật
tự nhiên ghi khắc
sự cần thiết phải ăn chay vì mọi thụ tạo có lý
trí đều lao động
để khắc phục nhục dục. Kết quả là các
thụ tạo có lý trí đều phải tuân thủ để đạt được
mục đích này. Với
các phương tiện
phục vụ việc ăn chay thì vị trí là quan trọng. Chức năng của luật tích cực là can thiệp vào những ngày được quy định phải tuân thủ điều này, cũng như
cách thức mà nhiệm vụ tương tự được
“tháo gỡ” vào những ngày đã quy định.
Điều
gắn liền với nguồn gốc và sự phát triển theo lịch sử của nhiệm vụ
này trong Giáo Hội
có thể được
thu gom dễ dàng từ
các bài viết về
ĂN KIÊNG và ĂN CHAY NGHIÊM NGẶT.
Luật ăn chay không được viết trong bản gốc, nhưng
phải được hiểu và áp dụng theo thói quen của nhiều thời đại và nhiều vùng. Có thể thấy trong nhiều bài viết cổ trong các từ điển hiện đại và
bách khoa từ điển của
ngành Khảo cổ Kitô
giáo.
Tại
Hoa Kỳ, các ngày trong Mùa Chay, các thứ Sáu trong Mùa Vọng (nói chung), các tuần tam trai (Ember Days, ăn chay 3 ngày),
vọng Giáng sinh và Hiện xuống (Ngũ tuần), kể cả
vọng Mông triệu
(14 tháng 8),vọng lễ các
Thánh (31 tháng 10) đều
là ngày giữ chay. Tại
Anh quốc, Ai-len, Úc và Canada, các ngày này đã được ấn định, cùng với các ngày thứ Tư trong Mùa Vọng và vọng lễ Thánh Phêrô và Phaolô (28 tháng
6) cũng là những ngày
chay. Ăn chay chủ yếu vẫn
là ăn nhưng không ăn no trong 24 giờ. Cũng ngầm hiểu sự bắt
buộc kiêng cữ
thịt trong khoảng thời gian đó, trừ phi giáo quyền cho phép ăn thịt. Lượng thực phẩm được
ăn trong bữa này chưa bao giờ được làm
thành luật tích cực. Vì thế, những ai ăn bữa “ngon” để
ăn chay nhằm thỏa mãn sự bắt buộc ăn chay. Bất kỳ
sự thái quá nào trong bữa
ăn đều làm giảm
sự điều độ, nhưng không
tác hại luật bắt
buộc ăn chay.
Theo cách dùng chung, buổi trưa là hợp lý cho bữa ăn này. Vì lý do tốt, thời gian này có thể liệu trước một cách hợp lý. Không là tội trọng dù ăn bữa này trước buổi trưa dù
không đủ lý lẽ, vì bản chất của việc ăn chay không bị vi phạm vì có thể ăn một bữa no. Cũng vậy,
thời điểm ăn bữa trưa (chính)
và bữa phụ (ăn
nhẹ) có thể
thay đổi vị trí lẫn
nhau. Tại nhiều thành phố lớn hiện nay phổ biến cách
này. Theo D'Annibale (Summa Theologiae Moralis, 4ed.III, 134) và Noldin (Summa
Theologiae Moralis, n.674), lý do hợp
lý có thể điều chỉnh
bữa phụ vào buổi
sáng, bữa tối thay vào
vào buổi trưa, và bữa sáng thay vào buổi chiều, vì bản chất việc ăn chay vẫn
nguyên vẹn. Không
gì gián đoạn hơn nếu
người đó dùng trong buổi trưa, vì điều đó hầu như thành hai bữa chứ không phải là một.
Theo nghĩa chung, việc cân nhắc ý riêng và thời gian gián đoạn, phải xác định xem sự gián đoạn đó có xứng đáng hay không. Thông thường, sự gián đoạn 30 phút được coi là nhẹ. Do đó, sau khi bắt đầu bữa trưa và
gián đoạn ăn chay từ
60 phút trở lên
thì được coi là bắt đầu lại và kết thúc bữa ăn sau khi kết thúc sự gián đoạn. Cuối cùng, nếu không có lý do đặc biệt thì không được phép kéo dài thời gian của bữa ăn này.
Thông thường, thời gian hơn
hai giờ bị coi là thái quá về vấn đề này.
Ngoài một bữa ăn
đầy đủ, ngày nay Giáo Hội cho phép ăn nhẹ vào chiều tối.
CỰU ƯỚC
Ăn chay bao gồm kiêng thịt được quy định bởi
luật của Ngày Xá Tội.
(Lv 16:29-34) Nghi thức gắn liền với lễ này
được người Do
Thái tuân thủ vào
ngày thứ năm trước
Lễ Lều Tạm. Từ chiều tối ngày thứ chín tới chiều tối ngày thứ mười đều không
được làm việc và phải ăn chay. Kinh thánh kể nhiều thứ khiến người
Do Thái phải ăn chay và
kiêng thịt để sám hối. (Tl 20:26; Gđ 6:20; Ge 1:14; Ge 2:15) Hơn
nữa, người Do Thái kiêng cữ vào ngày thứ chín của tháng thứ tư, vì đó là ngày vua
Nabucôđônôxo đã chiếm
giữ Đền thờ Giêrusalem; (Gr 52:6) vào ngày
thứ mười của tháng
thứ năm, vì đó là ngày
Đền Thờ bị
thiêu hủy; (Gr 52:12 sq.) vào
ngày thứ ba của tháng
thứ bảy, vì
đó là ngày Gơđangia bị
hạ sát; (Gr 41:2) vào ngày thứ
mười của tháng thứ mười, vì đó là ngày quân
Canđê chiếm giữ Đền
thờ Giêrusalem. (2 V 25:1) Họ được dạy rằng trung
thành giữ các luật này sẽ là niềm phấn khởi vui mừng và các
ngày lễ hội của
nhà Giuđa. (Dcr 8:19)
Trong tháng thu hoạch ngũ cốc, họ không
được ăn bánh
không men, và trong bảy ngày phải ăn thứ bánh
đau khổ đó
để nhớ ngày
thoát khỏi Ai Cập
(Đnl 16:3). Thêm vào các dấu hiệu liên quan các mùa kiêng cữ của người Do Thái,
sách thánh có những đoạn
văn nói về những cách thức và phương tiện mà luật kiêng cữ xác định rõ ràng.
Sau Đại
hồng thủy, Thiên Chúa nói với ông Nô-ê: “Mọi loài di động và có sự sống sẽ là lương
thực cho các ngươi;
Ta ban cho các ngươi tất
cả những thứ đó, cũng như đã
ban cỏ xanh tươi.
Tuy nhiên các ngươi không được ăn thịt với mạng sống
của nó, tức
là máu.” (St 9:3-4; tương tự Lv 7:26-27; Lv 17:13-14; Đnl 12:15-16) Lúa
mì, dầu tươi, rượu
mới, và con đầu lòng của đàn gia súc cũng bị cấm sử dụng (Đnl 12:17). Các tư
tế không được uống chất có
men, nếu không sẽ chết. (Lv 10:9) Chương 17 của
sách Lê-vi có liệt
kê chi tiết nhiều loại
thú, chim, cá bị cấm sử
dụng. Nếu sử dụng sẽ bị ô uế. Kiêng những thứ ô uế là để huấn luyện con cái
Ít-ra-en biết theo đuổi
sự thanh sạch tâm hồn.
Cựu
Ước có vài trường hợp điển hình về “tự hành xác.” Đa-vít đã
giữ chay khi vợ của Urigia sinh
cho ông một đứa con;
(2 Sm 12:16) Étte ăn chay phạt xác nhiệm nhặt; (Et 4:17k) Giuđitha ăn
chay suốt thời gian ở góa; (Gđt 8:6) Daniel
không ăn đồ cao lương
mỹ vị, không hề
nếm thịt và rượu,
không xức dầu thơm
trong ba tuần, (Đn 10:2-3) Giuđa Macabê và
mọi người ăn chay ba ngày;
(2 Mcb 13:12) Étra ra lệnh ăn
chay bên sông Ahava (Er 8:21); vua thành Ninivê ra lệnh ăn chay cả thành,
người và vật đều kiêng ăn và uống; (Gn 3:7) Môsê (Xh 34:28) và Êlia (1 V
19:8) ăn chay 40 ngày.
TÂN ƯỚC
Người
Pharisêu lên Đền thờ cầu
nguyện và tuyên bố
rằng ông ta ăn chay “hai lần
mỗi tuần” (Lc 18:12). Đặc biệt là
Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày trong hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4:2; Mc 1:13). Chúa
Giêsu ăn chay để
cứu độ và nêu gương. Sách Công Vụ khuyên “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng
ăn tiết, ăn thịt
loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm” (Cv 15:29).
Thánh Phaolô đề cập sự
cần thiết của việc kiêng cữ: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như
vậy là
để đoạt phần
thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không
bao giờ hư nát.” (1 Cr
9:25) Thật vậy, Chúa
Giêsu bảo rằng nếu
không ăn chay thì không trừ
được quỷ. (Mt 17:21)
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối, là chủ đề của nhiều cuộc
thăng trầm. Vào thời
Thánh Irênê (177-202), Mùa Chay có thời gian ngắn hơn. Một số người
ăn chay và kiêng thịt
chỉ 1 ngày, một
số người ăn chay 2 ngày, một số khác ăn chay nhiều ngày. Không có chứng cớ về việc giữ chay trước
thế kỷ IV. Sắc lệnh của Công
đồng Nicê
năm 325 (can. v, ap. Hefele, op. cit., I, 387) có nói tới Mùa Chay. Từ đó, lịch sử Giáo Hội có nhiều cách nói ám chỉ 40 ngày. Nhiều nỗ lực bao gồm Tuần Thánh cũng
thuộc Mùa Chay. Nỗ lực này thành công tại Rôma, do đó Mùa Chay gồm 6 tuần. Trong đó,
các Chúa Nhật không
buộc giữ luật ăn chay, nhưng
vẫn phải kiêng thịt.
Cuối cùng, Mùa Chay được tính không hơn 36 ngày. Dần dần Mùa Chay được tính trọn 40 ngày để tưởng nhớ việc Chúa
Giêsu ăn chay 40 ngày trong hoang địa.
Các bản
văn từ thế kỷ IV thường nói tới Mùa Chay. Theo tài liệu “Hành hương Etheria”
(Duchesne, op. cit., 555), cuối
thế kỷ thứ IV, Giêrusalem đã dành 40 ngày
(8 tuần) để
ăn chay và kiêng thịt.
Chắc chắn việc ăn khan (xerophagy) để giữ
chay có nguồn gốc từ
các tu viện rồi lan truyền
ra giáo dân. Đầu thế kỷ
IX, Thánh Nicephorus, Giáo phụ
thành Constantinople, nói rằng
phải ăn khan để giữ chay. (Pitra, Juris
Ecclesiastici Graeci Historia et Monumenta, Rome, 1868, II, 327) Giáo Hội Hy Lạp đã hợp pháp hóa gần nửa năm ăn chay hoặc kiêng
thịt, hoặc cả hai. Do đó,
nhiều tác giả Đông phương bảo vệ điều này.
Tuy nhiên, nhiều người Hy
Lạp cho rằng nhiều ngày trong loại này ít được tuân thủ.
VIỄN ĐÔNG
(chuyển ngữ từ
NewAdvent.org)
[Đăng báo ĐMHCG số 403, tháng 03-2020, DCCT xuất bản tại Hoa Kỳ]
|