HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 2 MÙA
CHAY A
St 12,1-4a ; 2 Tm
1,8b-10 ; Mt 17,1-9
MÙA
CHAY BIẾN ĐỔI TÂM HỒN
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG:
Mt 17,1-9.
(1) Sáu ngày
sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và
Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người
đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới
một ngọn núi cao. (2) Rồi Người biến
đổi hình dạng trước mặt các
ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng. (3) Và kìa các
ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm
đạo với Người. (4) Bấy giờ
ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng:
“Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là
hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại
đây ba cái lều. Ngài một cái, ông Mô-sê một
cái, và ông Ê-li-a một cái”. (5) Ông còn
đang nói, thì kìa có đám mây sáng
ngời bao phủ các ông, và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là
Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.
Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.
(6) Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp
mặt xuống đất. (7) Bấy giờ Đức
Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ!”. (8) Các
ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa,
chỉ còn một mình Đức Giê-su mà
thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống,
Đức Giê-su truyền cho các ông rằng:
“Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho
đến khi Con Người từ cõi chết
trỗi dậy”.
2. Ý
CHÍNH:
Bài Tin Mừng
thuật lại việc Đức Giê-su biến hình
trên một núi cao trước mặt ba môn
đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an.
Mặt Người chiếu sáng như mặt
trời. Áo người trở nên trắng
như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước
là Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với
Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu
Người là Con yêu dấu và đòi các
môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba
môn đệ từ vui mừng đến khiếp
sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 1-2: +Các
ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây là ba
môn đệ thân tín nhất của Đức
Giê-su. Các ông là những người nhiệt
thành yêu mến Thầy, và được trao
các nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giê-su
đã cho các ông thấy trước vinh quang của
Người, để thêm lòng tin, hầu đủ
sức vượt qua giờ phút đau thương
trong cuộc khổ nạn của Người (x. Mt
26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền
thống xa xưa, thì đó là ngọn Ta-bo. Tuy
núi này chỉ cao 360 m so với Địa Trung
Hải, nhưng nằm trên cánh đồng rộng
lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho người ta cảm
tưởng một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều
người nghĩ tới ngọn Khéc-môn cao
2.795 m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ
Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường
như Tin Mừng đã viết. Tuy nhiên có lẽ
khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng
đến ý nghĩa tượng trưng của
Núi: Núi là nơi khởi đầu và
kết thúc mặc khải của Thiên Chúa
đối với Mô-sê thời Cựu Ước
hay với Đức Giê-su thời Tân Ước
(x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người
nên một trong Nước Trời trong thời
cánh chung (x. Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến
đổi hình dạng trước mặt các
ông: Đức Giê-su tỏ bày Thiên tính
vinh quang của Người cho các môn đệ thấy.
Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm
đạo với Đức Chúa, mặt
Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ
không dám lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người
chói lọi như mặt trời, và y phục
Người trở nên trắng tinh như ánh
sáng: “Chói lọi như mặt trời”
là biểu hiện của sự thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thời
cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền
thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng
là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho
những người được Thiên Chúa
tuyển chọn.
- C 3-4: + Ông Mô-sê
và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho
Luật Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là
cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế
tất cả Cựu Ước đều hiện
diện để làm chứng và tôn vinh Đức
Giê-su. Hai vị này đàm đạo với
Đức Giê-su về cái chết của Người
sắp được thực hiện tại
Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới
(x. Lc 9,31). Như vậy, toàn bộ khung cảnh biến
hình này đều qui hướng về cuộc
Thương Khó và Phục Sinh của Đức
Giê-su. + Dựng ba cái lều: Theo truyền
thống Do thái thì Thiên Đàng được
gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà tạm
đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời
cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa
dân Người trong lều vinh quang của Người,
và dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng
Cứu Thế (x. Ga
1,14).
- C 5-6: + Đám
mây sáng ngời bao phủ các ông: Trong Cựu Ước,
khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức
Chúa thường xuất hiện trong đám
mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây
che phủ các ông, để nói lên sự can thiệp
đặc biệt như Người đã từng
cho mây rợp bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh
13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên Đức
Ma-ri-a vào ngày sứ thần truyền tin sau này (x.
Lc 1,35). + Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài
lòng về Người. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người: Lời này
nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức
Giê-su chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở
đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn đệ:
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
Qua đó, cho thấy Đức Giê-su chính là
vị Mô-sê Mới thời cánh chung sẽ xuất
hiện thay thế cho Mô-sê cũ thời Xuất Hành (x. Đnl 18,15). + Các môn
đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống
đất: Thái độ và cử chỉ
của các môn đệ là phản
ứng người ta thường có khi tiếp xúc với Thiên
Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).
- C 7-9: + “Trỗi
dậy đi, đừng sợ!”: Đức
Giê-su đã ra lệnh các môn đệ giống như
khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt
9,25). + Chỉ còn một mình Đức
Giê-su mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt,
thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ
đây, chỉ còn một mình Đức Giê-su
là Thầy dạy của Luật
mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn.
+ “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy,
cho đến khi Con Người từ cõi chết
trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng
nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một mầu
nhiệm lớn lao vừa được mặc
khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giê-su
muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ
đang trông chờ một Đấng Thiên Sai đến
giải phóng họ khỏi ách thống trị của
Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giê-su sống lại thì vai
trò của Người mới được
hiểu cách đúng đắn theo thánh ý Thiên
Chúa.
4. CÂU
HỎI:
1) Tại sao ba ông
Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức
Giê-su cho chứng kiến cảnh Người biến
hình? 2) Núi cao nói đây là núi nào?
Thực ra, Núi ở đây ám chỉ điều
gì? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng
được biến hình giống như Đức
Giê-su? 4) Việc Đức Giê-su biến đổi dung nhan
và áo mặc
mang ý nghĩa gì? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là
đại diện điều gì? Nội dung hai ông đàm đạo với
Đức Giê-su xoay quanh đề tài nào? 6) Lều
là hình ảnh tượng trưng điều
gì? 7) Đám mây bao phủ các môn đệ tượng
trưng gì? 8) Lời Chúa từ đám
mây khẳng định thế nào về Đức Giê-su? 8) Tại
sao Đức Giê-su đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới được
chứng kiến?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI
CHÚA: “Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người
chói lọi như mặt trời, và y phục
Người trở nên trắng tinh như ánh
sáng” (Mt 17,2).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) HOÀNG
TỬ GÙ LƯNG:
Tập nhân đức trái
với
thói hư là phương thế giúp nên hoàn thiện.
Có một hoàng
tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn.
Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất
được vua cha và bá quan trong triều nể
phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết
điểm duy nhất là cái tật gù lưng
từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị
tật ấy mà chàng bị mặc cảm tự
ti và không dám xuất hiện trước công
chúng. Triều đình có cái lệ này
là tạc tượng các nhân vật trong hoàng
tộc khi họ được 20 tuổi. Bức
tượng ấy sẽ được trưng bày
tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân
chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử
vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người
ta tạc tượng, nhưng không dám trái lệnh
vua cha, chàng chỉ yêu cầu hai điều và
được vua cha chấp thuận: Một là bức
tượng của chàng phải được
tạc trong tư thế đứng thẳng chứ
không bị gù lưng. Hai là bao lâu chàng còn
sống thì chỉ được đặt bức
tượng ấy tại
phòng riêng của chàng.
Từ khi có
bức tượng trong phòng, mỗi ngày
hoàng tử đều đến trước tượng
ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng
rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng,
và cố bắt chước tư thế của
bức tượng. Sau một thời gian, mọi
người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng
tử đã được biến đổi
không còn bị gù lưng như trước nữa.
Trái lại chàng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ
giống hệt bức tượng trong phòng của
chàng. Sau khi sửa được cái tật gù lưng,
hoàng tử đã đồng ý cho trưng
bày bức tượng của mình tại
viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc
sức chiêm ngưỡng.
Trong Mùa Chay này,
chúng ta cần tìm ra mối tội
đầu là thói xấu quan trọng
đang mắc phải và quyết tâm làm các việc cụ thể thuộc nhân đức đối lập để khắc
phục thói hư.
2) TU
THÂN, TỀ GIA, TRỊ QUỐC, BÌNH THIÊN HẠ:
Cần thay đổi bản
thân trước hết. Một
nhà giáo dục nổi tiếng
người Pháp đã tâm sự về cuộc
đời của ông như
sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu
nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một
người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu
nguyện của tôi như
sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để biến đổi những người trong gia
đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được
trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một
lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để
biến đổi chính mình
con."
Và ông kết luận: “Nếu
tôi biết cầu nguyện
như thế này từ ngày còn trẻ thì
tôi đã không uổng phí cả cuộc
đời.”
(Anthony de Mello,
Trích trong “The Song of the Bird”)
3) SƯ
TỬ
NGẠO MẠN ĐÃ TỰ HẠI MÌNH:
“cái tôi” ích kỷ tự mãn là kẻ thù lớn nhất. Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư
tử sống
gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ
và doạ nạt thỏ suốt
ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng: “Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn
và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này
nó chưa sợ ai, và cũng chưa
ai dám đối mặt với nó".
Thằng
cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận
và bảo rằng: "Thế
mày có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời: “Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi”.
Sư tử càng tức điên
người
lên và hỏi: “Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay”.
Thỏ liền dẫn sư
tử ra phía sau núi, và chỉ một cái giếng sâu và
bảo:
“Đấy, nó ở trong đó đấy!”.
Sư tử
đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức
nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy một tên sư tử cặp mắt giận dữ đang trừng trừng
nhìn nó. Sư tử liền rống lên một tiếng ra oai và tên kia cũng rống lên một tiếng giống như nó. Sư tử xù
lông cổ
lên và tên kia cũng xù lông cổ lên không sợ hãi.
Sư tử
nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử
căm tức đến tột độ liền dồn
hết sức nhảy phốc xuống giếng để
cho thằng khốn nạn kia một bài học. Thế là, con sư tử ngạo mạn đã tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu không sao trèo lên được nữa...
Trong các thói hư
thì thói kiêu ngạo đứng hàng
đầu,
thể hiện qua thái độ luôn tự mãn về cái tôi ích kỷ của mình, thích được người khác khen ngợi xu nịnh hoặc hay tự
đề cao mình lên và coi thường người
khác, luôn lấn át những người thân cô thế cô
hoặc
những ai yếu thế hơn mình.
4) BIẾN TỪ NGƯỜI
TỐT THÀNH KẺ XẤU CHỈ
SAU VÀI NĂM PHÓNG
ĐÃNG:
Nhiều người
đã được trông thấy bức ảnh rất nổi tiếng
của nhà danh hoạ LEONARD DE
VINCI, trong đó có các hình ảnh của Chúa Giê-su với 12 tông
đồ
đang ăn Bữa Tiệc Ly. Sau đây là câu chuyện về sự hình thành của bức tranh này:
Sau khi sơ phác bức tranh, họa
sĩ Leonard muốn tìm một khuôn mặt nhân hậu bao dung và đẹp đẽ, để làm mẫu vẽ khuôn mặt cực thánh của Chúa Giê-su, thì may mắn làm sao: một ngày
nọ
khi tham dự thánh lễ tại một
nhà thờ nọ, ông nhìn thấy trong đám ca viên hát lễ, có một thanh niên
tên Pietro Bandenelli, có nét mặt khôi ngô
phi thường. Sau một hồi tiếp xúc, cậu ta đã
bằng
lòng theo họa sĩ về xưởng
tranh để làm mẫu cho ông vẽ khuôn mặt của Chúa Giê-su.
Sau đó, họa sĩ tiếp
tục dành nhiều thời gian để
vẽ các khuôn mặt 12 tông đồ. Khi vẽ khuôn mặt của Giu-đa phản bội, ông tìm mãi mà không thể tìm ra một con người có nét mặt vừa gian ác vừa xấu xí để làm mẫu vẽ tông
đồ
này. Một hôm khi đi qua một khu chợ, tình cờ họa sĩ nhìn thấy một gã
ăn mày bên lề đường có
khuôn mặt
rất gian ác xấu xa, quần
áo nhếch nhác bẫn thỉu, đang giơ chiếc nón ra xin ông làm phúc bố thí. Họa sĩ thầm nghĩ: Có lẽ đây
chính là kẻ mình muốn tìm. Dù có đi hết các phố chợ trong thành phố cũng chẳng thể tìm ra kẻ nào có khuôn mặt xấu xa
gian ác hơn gã ăn mày này.
Ông đề nghị anh ta làm người mẫu với
một số tiền thù lao
khá hậu
hĩnh và anh ta đã vui vẻ theo ông về xưởng vẽ, giúp ông hoàn thành bức họa chỉ còn thiếu khuôn mặt của
Giu-đa phản bội.
Sau khi đã ngồi làm người mẫu và nhận tiền thù lao, trước khi ra về,
gã ăn mày yêu cầu và được họa sĩ cho xem bức tranh
hoàn tất. Đột nhiên gã ta bật khóc,
và khi được hỏi lý do thì gã
đã tâm sự như sau: “Ông quên tôi rồi sao? Cách đây mấy năm, tôi
cũng được ông mời đến
đây làm người mẫu giống
như hôm nay. Lúc đó ông
đã khen tôi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và ông lấy tôi làm mẫu vẽ khuôn mặt của Chúa Giê-su... Nhưng sau đó, tôi đã lỡ dại nghe theo bạn
bè, sa đà vào các thói hư như
rượu
chè, hút chích, chơi bời trác táng và nợ nần chồng chất. Tôi đã phải đi trộm cướp rồi
bị cảnh sát bắt đi tù. Khi được thả, sức
khỏe bị suy yếu và
không nghề
nghiệp, tôi rơi vào cảnh đói khát bần cùng,
phải
đi ăn xin như ông
đã thấy”.
Phải. Đây chính là câu chuyện điển hình của một cuộc biến đổi hình dạng: từ một khuôn mặt tốt đẹp thánh thiện ban đầu trở thành xấu xa gian ác
chỉ
sau mấy năm chơi bời trác táng!
3. SUY
NIỆM:
1) CÂU
CHUYỆN BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC
GIÊ-SU:
Tin Mừng
thuật lại câu chuyện Đức Giê-su biến hình trước
mặt ba môn đệ thân tín là các ông:
Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Chính khi ở trên núi
cao và trong lúc Đức Giê-su
đang cầu nguyện sốt sắng, mà các
môn đệ đã nhìn thấy khuôn mặt của Người
biến đổi: Dung nhan Người trở nên sáng ngời như Mô-sê xưa
kia, sau khi ông được gặp
gỡ
Đức Chúa (x. Xh
34,29-35); Y phục của Đức Giê-su trở thành trắng tinh
như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên
giới dành cho các người được
Thiên Chúa tuyển chọn; Đồng thời có hai nhân vật đại diện Lề Luật và ngôn sứ thời Cựu Ước
là ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Như vậy tất cả Cựu Ước
đều hiện diện để làm chứng
và tôn vinh Đức Giê-su. Điều đáng lưu
ý là giữa vinh quang ấy, hai vị này đã
đàm đạo về cái chết của Đức
Giê-su, như một cuộc Vượt
Qua Mới mà Người sắp trải qua tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra còn có
đám mây tượng trưng cho sự hiện
diện của Thiên Chúa, và tiếng phán của Chúa Cha
từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su
là Mô-sê Mới của thời Cánh Chung, như
ông Mô-sê đã từng tuyên sấm (x. Đnl 18,15).
2)
ĐI THEO CON ĐƯỜNG: “QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG”:
Đức
Giê-su được biến hình sau khi đã
chấp nhận cuộc Thương Khó và đã
chiến thắng Xa-tan cám dỗ qua lời can của ông Phê-rô (x. Mt
16,22-23). Người cương quyết đi con đường
“Qua đau khổ vào trong vinh quang” theo
thánh ý Chúa Cha.
Trong Mùa Chay này,
để
được thay hình đổi dạng như Đức Giê-su, chúng ta cần kiên trì tập luyện, chấp nhận
đường thập giá nhỏ hẹp
leo dốc.
Phải siêng năng cầu nguyện, lắng
nghe lời Chúa, và sẵn sàng từ bỏ ý riêng để vác thập giá mình hằng ngày mà
theo chân Chúa. Nhờ đó,
chúng ta hy vọng sẽ được vào trong vinh
quang phục
sinh với Người.
3) MÙA
CHAY LÀ THỜI GIAN THUẬN TIỆN ĐỂ BIẾN ĐỔI
NÊN TỐT HƠN:
Muốn được
“biến hình” nên “con yêu dấu của Thiên Chúa”, trong Mùa Chay này chúng ta cần thực hành lời Chúa Cha
dạy
các môn đệ là vâng nghe lời Đức Giê-su. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt
mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cuộc sống quy chiếu
theo gương mẫu và lời Chúa dạy cụ thể như sau:
- Năng tham dự thánh lễ để được gặp Chúa Giê-su trong phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Năng đọc và suy niệm Lời Chúa trong giờ kinh tối hằng ngày, tham dự các
buổi
“học sống Lời Chúa”
theo Nhóm nhỏ hằng tuần…
- Trong ngày hãy
năng cầu nguyện như trẻ Sa-mu-en trong đền thờ
khi xua: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng
nghe'' (I Sm 3,9), hoặc như Sau-lô sau khi bị ngã
ngựa
ở thành Đa-mát: “Lạy
Chúa, con phải làm gì?” (x. Cv 22,10).
- Mỗi khi gặp
hoàn cảnh thực tế
không biết phải ứng xứ
thế nào cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa
ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì
Chúa sẽ làm gì?”.
Rồi
lắng nghe Lời Chúa phán
trong lòng trí và quyết tâm thực hành lời Chúa dạy.
- Ngoài ra còn phải sống Lời
Chúa cụ thể bằng việc:
thăm viếng bệnh nhân
nghèo tại
các bệnh viện, nhà nuôi người già, nhà tình thương… để chia sẻ cơm
bánh cụ thể; Đến
với anh em lương dân muốn theo đạo
để truyền giảng Tin Mừng cho họ…
4. THẢO LUẬN:
Mùa Chay là
mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để nên tốt lành hơn. Vậy
trong Mùa Chay này chúng ta cần biến đổi điều gì trong lối sống đạo, để
trở
nên Con rất yêu dấu
của
Chúa Cha như Chúa
Giê-su?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Chúa muốn chúng con thực thi giới
răn quan trọng nhất là sống tình yêu thương tha nhân. Tuy nhiên nói
thì dễ, nhưng thực hành lại không dễ chút nào. Thực vậy: Làm sao chúng con có thể yêu
thương được một người hàng
xóm lắm điều xấu tính; Một ông chồng khó ưa hay
bẳn gắt nạt nộ vợ con; Một người mua hàng tham
lam gian dối; Một bà hàng
xóm ưa tò mò tọc mạch, hay nói xấu thêm bớt để hạ uy tín của chúng con… ? Xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng,
cầu nguyện điều lành cho họ, làm
điều tốt để đáp lai điều xấu. Ước gì chúng
con luôn nói những lời an ủi động viên
những người gặp đau khổ rủi
ro. Ước gì chúng con biết quảng đại
chia sẻ tiền bạc vật chất cho những bệnh
nhân nghèo đói mắc chứng bệnh nan y. Ước gì chúng
con biết mở rộng vòng tay thân ái đón
nhận tha nhân và nhìn họ là anh chị em, là
con của
một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|