ĂN NĂN
Ăn chay là một
dạng ăn kiêng, nhưng ăn chay luôn liên quan
ăn năn. Chắc hẳn
không ai lại không
biết ăn năn là gì.
Tại sao? Bởi vì
“nhân vô thập toàn”,
ai cũng có kinh nghiệm
về tội lỗi, thế nên ai cũng đã trải nghiệm việc ăn năn.
Vì CÓ TỘI
nên phải ĂN
NĂN, nhờ ăn năn mà được THA THỨ, được tha thứ
vì được
THƯƠNG XÓT, được thương xót
thì phải BIẾT ƠN.
Ăn năn là hối cải, sám hối, hối hận về tội lỗi
của mình, là sự thay đổi
trong tư tưởng và hành động nhằm chỉnh sửa sự sai
trái để được
tha thứ, chúng ta gọi
đó là “cải tà quy
chánh” – nghĩa là từ
bỏ đường xấu mà quay về đường ngay thẳng, tốt
lành. Theo nội hàm
Kitô giáo, tình trạng hối
cải là sự thú tội với Thiên Chúa, từ bỏ tội lỗi, quyết tâm chừa cải và cố gắng sống tốt, phù hợp với Luật Chúa và
Luật Giáo Hội.
Mỗi chúng
ta đều là tội nhân, đều mang “vóc dáng” của người thu thuế: “Lạy
Đức Chúa Trời, xin thương xót
tôi là kẻ có tội.” (Lc
18:13) Vấn đề không chỉ là đấm ngực, than van, mà phải thành tâm sám hối. Tất nhiên, chúng ta cũng
phải coi chừng chính
mình, đừng như người
Pharisêu, kiêu hãnh vỗ
ngực xưng tên, không đấm ngực mình mà lại dám đấm ngực người.
Chữ
“ăn năn” trong Việt ngữ có ý
nghĩa sâu xa. Ăn năn là cảm
thấy ray rứt, bị giày vò vì lỗi lầm đã mắc phải. Cha Đắc Lộ giải
thích: “Năn: thứ
cỏ đắng; Ăn năn: ăn thứ cỏ đắng,
theo lối nói ẩn
dụ để chỉ sự thống hối.” [1] Chữ phải có nghĩa, ngôn ngữ thật là thâm thúy!
Nói đến
từ ngữ “ăn năn” khiến chúng
ta liên tưởng cụm từ
“kết cỏ ngậm vành”. Tác giả J.B. Tavernier giải thích: “Nhưng nếu là trường hợp một kẻ có tội muốn xin tha tội đã phạm, người ta đưa kẻ phạm
tội đến trước mặt người sẽ
nghe kẻ đó xin tha tội và kẻ phạm tội phải ngậm ở
miệng một nắm cỏ, nghĩa là do lối sống lệch lạc và
cách ăn ở xấu xa
của mình, kẻ phạm tội đã trở nên giống súc vật.” [2]
Cách nói “kết
cỏ ngậm vành” là dịch
từ thành ngữ tiếng Hán: “Kết thảo hàm
hoàn.” Thành ngữ này có
nguồn gốc từ hai điển tích:
1. ĐIỂN
TÍCH “KẾT CỎ”
Đời
nhà Tần có Ngụy Vũ Tử (có
sách ghi là Ngụy Thù hoặc Ngụy Hùng) rất yêu quý người vợ lẽ. Khi hấp hối, ông dặn con trai là Ngụy Khoả hãy chôn người vợ lẽ yêu dấu theo cùng với mình, theo tục lệ cổ truyền của nước
Tần. Ngụy Khoả thấy tội nghiệp nên
không đành lòng làm vậy.
Sau khi cha chết, Ngụy Khoả cho vợ lẽ của
cha đi lấy chồng khác. Có người hỏi: “Tại sao không
làm theo lời cha trăn trối?” Ngụy Khỏa đáp: “Hiếu tử nên nghe theo lời trị mệnh chứ không
nên nghe theo lời loạn
mệnh” (tức là nên
theo lời nói của người tỉnh táo,
không nên theo lời nói của người mê sảng).
Về sau, Nguỵ
Khoả lĩnh mệnh vua đi đánh
giặc, trong lúc đang giao
đấu gần kiệt
sức, sắp thua tướng giặc nhà Tần là Đỗ Hồi, tài ba lỗi lạc, vũ dũng vô
địch. Thế nhưng
Ngụy Khoả bỗng thấy Đỗ Hồi bị ngã vì
vướng cỏ. Ngụy
Khoả xông tới
đâm chết Đỗ Hồi.
Đêm về, Ngụy Khoả
nằm chiêm bao thấy
có một ông
già râu tóc bạc phơ, tay cầm
gậy trúc, đến
cầm tay mình và ân cần
nói: “Cảm
ơn tướng quân vì đã không theo di
huấn của cha mà
chôn sống con gái
tôi, thế nên
sáng nay tôi đã kết
cỏ làm vướng chân ngựa, khiến giặc ngã ngựa, giúp tướng quân thắng trận. Xin tướng quân
ghi nhận tấm lòng
biết ơn của
cha con tôi.” Nói xong, cụ già vụt biến mất. Ngụy Khỏa giật
mình tỉnh giấc, nhớ
lại chuyện cũ, biết cụ già
chính là cha của nàng hầu trẻ đẹp trước kia của
cha mình.
2. ĐIỂN
TÍCH “NGẬM VÀNH”
Đời
nhà Hán có Dương Bảo
mới chín tuổi.
Khi đi chơi ở phía Bắc núi Hoa Âm (có sách ghi là Hạp Âm), Dương Bảo thấy một con chim sẻ vàng bị con chim cắt cắn gần chết.
Dương Bảo đuổi chim cắt đi, đem sẻ
về nhà nuôi gần 100 ngày
thì chim sẻ khoẻ lại,
rồi thả cho bay đi về đàn.
Đêm ấy, Dương Bảo
nằm mộng, thấy một một con chim bay đến,
miệng ngậm bốn vòng bạch ngọc. Dương Bảo chưa kịp hiểu
sự tình thì bỗng con chim cùng bốn vòng bạch ngọc biến thành một đứa trẻ mặc áo
vàng, tiến đến bái tạ và nói: “Ta là sứ giả của Tây Vương
Mẫu, giữa đường
gặp nạn, trước đã nhờ người ra tay cứu vớt, nên
nay đến đền ơn
người đây. Xin tặng ông bốn vòng bạch ngọc. Đấy là biểu tượng cho sự vinh hiển mà ông
và các con cháu bốn
đời sẽ đạt được.” Quả thật, về sau con của Dương
Bảo là Dương Chấn,
cháu là Dương Bỉnh,
chắt là Dương Tứ và chít là Dương Bưu đều được vinh hiển, có người lên đến chức Tam Công.
Thành ngữ
“kết cỏ ngậm vành” thường được dùng
như một lời nguyền
đền ơn đáp nghĩa. Khi làm ơn cho người khác thì chẳng ai mong được họ trả
ơn, thậm chí người
ta còn nói: “Cứu
vật, vật trả ơn; cứu người, người
trả oán”. Tuy nhiên, chuyện xưa tích cũ vẫn có giá trị giáo huấn cách sống đẹp cho con người ngày
nay: Biết thương người,
biết giúp người,
biết tri ân người.
Tục ngữ nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.”
Trong “Đoạn Trường Tân
Thanh” (Truyện Kiều), cụ
Nguyễn Du cũng có câu thơ nói về ý nghĩa này:
Dám nhờ
cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết
cỏ, ngậm vành về sau
Danh họa
Léonardo Da Vinci (người
Ý, đồng thời
cũng là điêu khắc gia và thi
sĩ nổi tiếng) quan
niệm: “Ăn chay là đạo đức của con người.
Ăn chay sẽ tránh được tội ác.” Bác
học Albert Einstein là người yêu chuộng hòa bình, tôn trọng sự sống của muôn
loài, và đã nhận định: “Không
gì ích lợi cho sức khỏe
của con người để có cơ
hội sống lâu
trên quả địa cầu
này bằng cách
ăn chay.”
Ăn chay có lợi
cho sức khỏe thể lý, ngừa bệnh và trị bệnh. Ăn chay còn có
lợi cho tinh thần, cho tâm
linh. Dù vô tội, Chúa
Giêsu vẫn “ăn chay ròng
rã bốn mươi
đêm ngày.” (Mt 4:2) Vậy
thì chúng ta không thể
không ăn chay, vì tất
cả chúng ta đều là tội nhân. Tuy nhiên, chúng ta phải kín đáo chứ đừng phô trương,
(Mt 6:1-18) nếu không
thì chỉ vô
ích. Ma quỷ sẽ “bó
tay” nếu chúng
ta ăn chay và cầu nguyện.
(Mt 17:21)
Lạy
Thiên Chúa, xin lấy
lòng nhân hậu
xót thương con, mở lượng hải hà xoá
tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi
lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm
điều dữ trái mắt Ngài. (Tv 51:3-6)
TRẦM
THIÊN THU
Chú Thích:
[1] Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN ANNAM - LUSITAN -
LATINH (TỪ ĐIỂN VIỆT - BỒ - LA), Roma, 1651. Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính,
NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991, P.I, tr. 504: “Năn: herba quaedam
amara; Ăn năn: herbam illam amaram comederem, metaphoricè
dicitur poenitudine.”
[2] J.B. Tavernier, SUITE DES VOYAGES DE MGR TAVERNIER,
BARON D'AUBONNE, Paris, 1680, phần
IV, tr. 22: “Mais s'il y a bien pour un coupable de demander pardon de son
crime, on le mène devant celuy qui le doit écouter et alas il
faut qu'il ait à la bouche un bouquet d'herbe qui donne à entendre que par le
déréglement de sa vie et sa mauvaise conduite, il s'étoit rendu semblable aux
bestes.”
[Đăng báo TTĐM số 507, tháng 03-2020, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc xuất bản tại Hoa Kỳ]
|